Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II: Thần học về thân xác phần một - Thuở ban đầu
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II:
Thần học về thân xác phần một - Thuở ban đầu (Giáo lí về sách Sáng Thế)
WHĐ (28.01.2024) – Tác phẩm “Tình yêu phàm nhân trong kế hoạch thần linh” là một Thần học về Thân xác của Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II. Ngài đã nói “con người trở thành ‘hình ảnh và họa ảnh’ của Thiên Chúa không chỉ bởi nhân tính của mình nhưng còn nhờ sự hiệp thông các ngôi vị giữa người nam và người nữ ngay từ thuở ban đầu”. Một tiếp cận mới thuyết phục về vấn đề tính dục con người và đạo đức tính dục. Có người đã nói đức Gioan-Phaolô II là nhà cách mạng tính dục lảm đảo lại cuộc “cách mạng tình dục” thế kỉ vừa qua, đổi hướng qui nó về Nguồn và Cùng đích thật của nó.
Xin được gửi đến quý độc giả bản dịch Việt ngữ của Đức Giám mục Louis Nguyễn Anh Tuấn về tác phẩm này.
GIOAN PHAOLÔ II
THẦN HỌC VỀ THÂN XÁC
TÌNH YÊU PHÀM NHÂN TRONG KẾ HOẠCH THẦN LINH
Sự cứu chuộc thân xác và tính bí tích của hôn nhân trong các huấn giáo ngày thứ Tư (1979-1984)
PHẦN MỘT:
THUỞ BAN ĐẦU
(Giáo lí về sách Sáng Thế)
Chuyển ngữ: Giám mục Louis Nguyễn Anh Tuấn
Mục lục
I. Tọa đàm với Đức Kitô về nền tảng của gia đình
II. Định nghĩa khách quan về con người trong trình thuật tạo dựng thứ nhất
III. Định nghĩa chủ quan về con người trong trình thuật tạo dựng thứ hai
IV. Sự liên hệ giữa tình trạng vô tội nguyên thủy và tình trạng được cứu chuộc nhờ Đức Kitô
V. Con người đi tìm định nghĩa chính mình
VI. Con người từ tình trạng đơn độc nguyên thủy đến tình trạng ý thức mình là một nhân vị
VII. Chọn lựa giữa cái chết hay sự bất tử định nghĩa con người
VIII. Sự hợp nhất nguyên thủy của người nam và người nữ trong nhân tính
IX. Con người cũng trở thành hình ảnh của Thiên Chúa qua sự hiệp thông liên vị
X. Giá trị của hôn nhân đơn nhất và bất khả phân ly dưới ánh sáng của các chương đầu sách Sáng Thế
XI. Ý nghĩa những kinh nghiệm nguyên thủy của con người
XII. Tính nhân vị tròn đầy trong tình trạng vô tội nguyên thủy
XIII. Tạo thành như là tặng phẩm căn bản và nguyên thủy
XIV. Mạc khải và khám phá ý nghĩa hợp hôn của thân xác
XV. Nhân vị là một tặng phẩm trong tự do của tình yêu thương
XVI. Ý thức về ý nghĩa của thân xác và sự vô tội nguyên thủy
XVII. Sự trao hiến xác thân tạo nên một mối hiệp thông đích thực
XVIII. Sự vô tội nguyên thủy và tình trạng lịch sử của con người
XIX. Với bí tích thân xác con người cảm thấy mình là chủ thể của sự thánh thiện
XX. Ý nghĩa của sự biết theo Kinh thánh trong cuộc sống hôn nhân
XXI. Mầu nhiệm người nữ được mạc khải trong mẫu tính
XXII. Chu kì biết-sinh hạ và viễn tượng sự chết
XXIII. Những vấn đề về hôn nhân trong cái nhìn toàn diện về con người
***************************
I. Tọa đàm với Đức Kitô về nền tảng của gia đình
(Ngày 5 tháng 9 năm 1979)
1. Các công việc chuẩn bị cho Thượng Hội Đồng các Giám mục sắp diễn ra tại Roma mùa thu năm tới đã bắt đầu tiến hành bấy lâu nay. Chủ đề của Thượng hội đồng lần này là: “De muneribus familiae christianae” (Những bổn phận của gia đình kitô giáo), chú tâm vào cộng đoàn đời sống nhân bản và kitô này, vốn là nền tảng từ “thuở ban đầu” (da principio)[1]. Đây chính là diễn ngữ mà Chúa Giêsu đã dùng trong cuộc tọa đàm về hôn nhân, được tường thuật trong Phúc âm thánh Matthêu và Phúc âm thánh Marcô. Chúng tôi tự hỏi hạn từ “thuở ban đầu” này có nghĩa là gì. Hơn nữa chúng tôi muốn làm sáng tỏ tại sao Đức Kitô viện tới cái “ban đầu” ngay trong bối cảnh đó và, bởi đó, chúng tôi cố gắng phân tích cụ thể hơn bản văn kinh thánh liên hệ.
2. Trong khi nói chuyện với những người Pharisêu, họ đặt vấn đề với Người về hôn nhân bất khả phân li, Đức Giêsu Kitô đã nhắc tới hai lần “thuở ban đầu”. Buổi nói chuyện ấy diễn ra như thế này: «…Có mấy người Pharisêu đến gần Đức Giêsu để thử Người. Họ nói: “Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lí do nào không ?”. Người đáp: “Các ông không đọc thấy điều này sao: ‘Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hóa đã làm ra con người có nam có nữ’, và Người đã phán: ‘Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt.’ Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân li.” Họ thưa với Người: “Thế sao ông Môsê lại truyền dạy cấp giấy li dị mà rẫy vợ?” Người bảo họ: “Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu”».[2] Đức Kitô không chấp nhận tranh luận ở bình diện mà những người đối thoại với Người cố dẫn vào, theo một nghĩa nào đó Người không thuận tình với chiều kích mà họ đã cố đặt ra cho vấn đề. Người tránh không để vướng mắc vào những cuộc tranh cãi mang tính chất pháp lí theo nố; nhưng lại hai lần nhắc đến ‘thuở ban đầu’. Khi làm thế, Người minh nhiên viện đến lời của sách Sáng thế có liên hệ, là những lời mà cả những người đang đối thoại với Người thuộc nằm lòng. Từ những lời mạc khải rất cổ xưa ấy, Đức Kitô rút ra kết luận và buổi nói chuyện khép lại.
3. Do đó, “thuở ban đầu” mang ý nghĩa mà sách Sáng thế nói đến. Đức Kitô trích dẫn St 1, 27 dưới hình thức ngắn gọn: «Thuở ban đầu Đấng Tạo Hóa đã tạo dựng nên họ có nam có nữ». Đang khi đó đoạn văn gốc đầy đủ nói từng chữ như sau: «Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh Thiên Chúa; Thiên Chúa tạo dựng con người có nam có nữ». Sau đó, Thầy chúng ta nhắc đến St 2, 24: «Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt». Khi trích dẫn gần như đầy đủ những lời này, Đức Kitô đã cho chúng một ý nghĩa có tính chuẩn mực rõ ràng hơn (bằng chứng là sách Sáng thế cũng khẳng định những điều y như vậy: “lìa bỏ… kết hợp…, thành một xương một thịt”). Ý nghĩa chuẩn mực đó là hợp lí vì Đức Kitô không chỉ tự giới hạn trong việc trích dẫn mà thôi nhưng Người còn thêm: «Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân li». Câu nói «loài người không được phân li» có tính quyết định. Dưới ánh sáng những lời ấy của Đức Kitô, St 2, 24 đưa ra nguyên tắc về tính đơn nhất và bất khả phân li của hôn nhân như chính nội dung của Lời Chúa, được diễn tả trong mạc khải cổ xưa nhất.
4. Tới đây người ta có thể cho rằng vấn đề đã chấm dứt, và những lời của Đức Giêsu Kitô xác nhận luật vĩnh cửu đã được Thiên Chúa hình thành và thiết lập từ “thuở ban đầu” khi tạo dựng con người. Cũng có thể rằng khi xác nhận luật nguyên thủy của Đấng Tạo Hóa, người Thầy của chúng ta không làm gì khác ngoài việc chỉ xác lập ý nghĩa chuẩn mực của riêng mình, viện tới chính thẩm quyền của nhà Lập pháp đệ nhất. Tuy nhiên, thành ngữ rất ý nghĩa “từ thuở ban đầu” ấy, được lặp lại hai lần, rõ ràng muốn mời gọi những người đối thoại suy nghĩ về cách thức mà con người đã được dựng nên trong mầu nhiệm sáng tạo, cụ thể như là “nam và nữ”, để hiểu cách chính xác ý nghĩa chuẩn mực của lời sách Sáng thế. Điều ấy cũng không kém hợp lí cho con người ngày nay hơn con người ngày xưa. Do đó, trong bài nghiên cứu này, khi xem xét tất cả những điều ấy, chúng ta phải đặt mình trong vị trí của những người đối thoại với Đức Kitô ngày hôm nay.
5. Trong những buổi tiếp kiến chung ngày thứ tư hàng tuần kế tiếp, như những con người hôm nay đối thoại với Đức Kitô, chúng ta sẽ thử dừng lại lâu hơn với những lời của thánh Matthêu.[3] Để trả lời cho chỉ dẫn mà Đức Kitô gói ghém trong những lời ấy, chúng ta sẽ cố đi sâu vào ý nghĩa của từ ngữ “thuở ban đầu” ấy, từ ngữ mà Người đã nhắc đến một cách rất ý nghĩa. Và như thế chúng ta sẽ theo dõi từ xa công việc lớn lao mà những người tham dự Thượng Hội Đồng các Giám mục sắp tới sẽ đảm đương, trên chủ đề này ngay từ bây giờ. Cùng với các ngài, rất nhiều nhóm gồm các mục tử và giáo dân cảm thấy mình có trách nhiệm đặc biệt về những nhiệm vụ mà Đức Kitô đặt ra cho hôn nhân và gia đình kitô giáo: những nhiệm vụ mà Người đã luôn đặt ra và hiện vẫn còn đặt ra trong thời đại chúng ta, trong thế giới ngày nay. Chuỗi những bài suy tư chúng ta đang bắt đầu hôm nay, với ý hướng tiếp tục trong những buổi gặp gỡ thứ tư kế tiếp, cũng có một mục đích đồng hành, có thể nói là từ xa, với các công việc chuẩn bị cho Thượng Hội Đồng, nhưng không đề cập trực tiếp tới chủ đề của Thượng Hội Đồng mà hướng chú ý đến những cội nguồn sâu thẳm từ đó tuôn trào ra chủ đề này.
(Còn tiếp)
COMMENTS