Cộng đoàn: Sự hiệp thông huynh đệ
Macta Nguyễn Thị Vân
Cộng đoàn: Sự hiệp thông huynh đệ
Đời sống thánh hiến ngoài ba lời khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục thì một trong những yếu tố cốt yếu chính là đời sống cộng đoàn.
Giáo hội đã ký thác nơi các cộng đoàn sống đời thánh hiến một nhiệm vụ đặc biệt, đó là việc “phát triển linh đạo hiệp thông trước tiên trong chính cộng đoàn của họ, sau đó trong cộng đoàn Giáo hội và ngoài Giáo hội, bằng cách kiên trì theo đuổi cuộc đối thoại bác ái…” (VC 51a). Như thế, chính khi chiêm niệm nguồn gốc của đời sống thánh hiến, các tu sĩ tìm thấy một mô hình kiểu mẫu để tổ chức đời sống cộng đoàn của mình, một mô hình hiệp thông huynh đệ. Từ đó, đời sống thánh hiến trở thành dấu chỉ của sự thông hiệp của Giáo hội và trở thành men bột phát triển tình huynh đệ đại đồng của nhân loại, mục tiêu của công cuộc truyền giáo.
Cộng đoàn như là một hồng ân của Chúa, bắt nguồn từ mầu nhiệm Ba Ngôi chí thánh (FLC 8-10). Đời sống huynh đệ trong cộng đoàn là dấu chỉ rõ ràng sự hiệp thông của Giáo hội. Cộng đoàn tu trì “không đơn thuần là một tập hợp các Ki-tô hữu để tìm kiếm sự hoàn thiện cá nhân. Sâu xa hơn nhiều, đó là sự thông phần và là chứng tá đặc biệt của Giáo hội mầu nhiệm” (FLC 2a). Đó là một nhóm người “tin cùng một điều, sống cùng một nơi, dưới một quyền bính, là nơi ta được mời gọi quy tụ thành một gia đình thực sự nhân danh Chúa, được củng cố bởi sự hiện diện của Thiên Chúa” (HP 31). Tuy cùng tin một điều, cùng sống một nơi nhưng mỗi người lại mỗi nét văn hóa khác nhau với phong tục tập quán, tính cách khác nhau nên không tránh khỏi những va chạm, hiểu lầm hay xung đột trong cộng đoàn. Nhưng đời sống cộng đoàn không phải chỉ toàn những khó khăn và thử thách, còn có rất nhiều niềm vui và lợi ích mà cộng đoàn mang lại cho người tu sĩ. Đó là qua người anh chị em, ta khám phá ra chính mình, vì con người trở nên người hơn nhờ việc tương tác với người khác.
Với thánh Phaolô, sống cộng đoàn là mang vác gánh nặng cho nhau, nghĩa là chấp nhận người khác như họ là, với tất cả thiếu sót và giới hạn của họ. Nơi đây các thành viên được chấp nhận và thấy mình có ý nghĩa, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Mỗi thành viên trong cộng đoàn là một cá vị độc đáo, không ai giống ai. Con người có thể nhận diện chính mình, nhưng cũng không thể hiểu hết về mình, nhất là không bao giờ có thể hiểu hết về người khác, ta chỉ có thể biết một phần nào đó về người khác mà thôi. Vì thế ta không thể đóng khung người khác, đóng khung chị em trong nhận thức của lý trí. Đóng khung như thế là loại bỏ đi tác động của Chúa Thánh Thần đang hoạt động nơi người khác, vì ai ai cũng đang sống trong một tiến trình năng động, hôm nay là thế nhưng ngày mai đã khác rồi.
Hiến pháp Chị em Đa Minh Việt Nam số 31,32 nêu rõ “Chúng ta được mời gọi quy tụ thành một gia đình thực sự nhân danh Chúa… được củng cố bởi sự hiện diện của Thiên Chúa”. Vì thế, ta xác tín rằng cộng đoàn là nơi có Chúa hiện diện, một nơi thánh. Sự thánh thiêng ở đây không hệ tại ở những tòa nhà kiên cố, nguy nga đẹp đẽ, nơi có những con người tốt đẹp, thánh thiện… nhưng linh thánh vì đây là nơi có Chúa hiện diện.
Khi ông Môsê được Chúa gọi từ bụi gai, Ngài đã phán với ông: “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacop” (Xh 3,6). Thiên Chúa đã xác định mình là ai, Ngài xác định Ngài có mặt ở đó. Ngài phán với ông “Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh”, ông đã cởi dép và bước vào đất thánh. Ý thức về sự thánh thiêng trong Hội dòng, cộng đoàn như thế, ta sẽ cư xử với chị em mình như là những người thánh, người thuộc về Chúa. Niềm tin có sự hiện diện của Thiên Chúa sẽ giúp ta nhìn mọi sự dưới ánh sáng của Chúa, đánh giá mọi việc theo tiêu chuẩn của Tin Mừng mà không phải theo thế gian. Niềm tin ấy sẽ giúp ta cới bỏ “dép” là mặt nạ, sự phòng vệ để bước đi trên đôi chân trần là con người thực, sẵn sàng chấp nhận tổn thương, vấy bẩn, chấp nhận và tự nguyện sống liên đới với chị em trong thành công cũng như trong thất bại, trong vật chất cũng như trong tinh thần. Cộng đoàn là nơi “ta trở nên anh chị em với nhau, đó là con đường thích hợp nhất để cộng đoàn xây nên tình huynh đệ Kitô giáo (FLC 11).
Đời sống thánh hiến không theo đuổi mục đích nào khác hơn là sự thánh thiện, tức là sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, tổ chức đời sống mình chung quanh trọng tâm Thiên Chúa. Sứ mạng căn bản của đời sống thánh hiến là “Alter Christus” nghĩa là họa lại dung mạo của Chúa Kitô, trở nên một Đức Kitô khác cho mọi người. Sứ mạng làm cho Đức Kitô hiện diện bằng chứng tá. Chứng tá của người sống niềm vui Tin Mừng, có khả năng đánh thức thế giới qua đời sống, lời nói. Trở nên những chuyên viên của sự hiệp thông, làm cho Giáo hội trở thành ngôi nhà và trường học của hiệp thông. Nhưng sứ vụ ấy không thể chỉ thực hiện bằng nỗ lực cá nhân, nhưng cùng với cộng đoàn và sứ vụ ấy cần để cho Đức Giêsu và Thánh thần của Ngài hướng dẫn.
COMMENTS