Chúng tôi cùng đi với anh - Ý nghĩa “Hiệp Hành" (Phần III)

SHARE:

Chúng tôi cùng đi với anh - Ý nghĩa “Hiệp Hành" (Phần III)

Lm. Giuse Trương Đình Hiền 
(Tìm hiểu khái quát về ý nghĩa “HIỆP HÀNH - SYNODALITY)[1] 
Ngày 30.9.2021 

III. HIỆP HÀNH TRONG VIỄN TƯỢNG THÁNH KINH, TRUYỀN THỐNG VÀ LỊCH SỬ 
1. Một thoáng Thánh Kinh liên quan đến khái niệm hiệp hành 
2. Truyền Thống và lịch sử liên quan đến khái niệm hiệp hành 

III. HIỆP HÀNH TRONG VIỄN TƯỢNG THÁNH KINH, TRUYỀN THỐNG VÀ LỊCH SỬ 

1. Một thoáng Thánh Kinh liên quan đến khái niệm hiệp hành. 

1.1. Cựu ước và cuộc “Triệu tập dân Chúa” (qahal /‘edah – Ekklesia):

1.1.1. Thiên Chúa giàu lòng thương xót muốn quy tụ nhân loại sau biến cố sa ngã để cứu độ: 
“Tuy nhiên, Thiên Chúa giàu lòng thương xót, không ngừng canh tân giao ước của Ngài để mang tất cả những gì đã bị phân tán trở lại con đường hiệp nhất, chữa lành tự do của con người và hướng nó đến để chào đón và sống món quà kết hiệp với Thiên Chúa và hiệp nhất với anh chị em của chúng ta trong công trình sáng tạo, như trong một gia đình” (St 9,8-17; 15; 17; Xh 19-24; 2 Sm 7,11)[40]. 

1.1.2. Cuộc “triệu tập dân Chúa” (קָחַל/עֵדה (qahal /‘edah) qua ơn gọi Abraham, được củng cố với Giao ước Sinai, tiên báo “đoàn dân của Giao ước mới là Giáo Hội (έκκλησία – Ecclesia): 
“Khi thực hiện kế hoạch của Ngài, Thiên Chúa kêu gọi Áp-ra-ham và con cháu của Ngài (St 12,1-3; 17,1-5; 22,16-18). Cuộc triệu tập này (קָחַל/עֵדה - qahal /‘edah - thuật ngữ đầu tiên thường được dịch sang tiếng Hy Lạp là έκκλησία - ekklesia), được củng cố trong giao ước Sinai (Xh 24,6-8; 34,20tt), làm cho Dân được giải thoát khỏi kiếp nô lệ và xứng đáng đối thoại với Thiên Chúa; trong cuộc xuất hành, họ tập hợp để tôn thờ Thiên Chúa và sống theo luật pháp của Ngài, và để họ nhận ra rằng họ thuộc về một mình Ngài (Đnl 5,1-22; Gs 8; Nkm 8.1-18). קָחַל / (qahal / edah) là hình thức đầu tiên trong đó ơn gọi mang tính hiệp hành (synodal vocation) của Thiên Chúa được biểu lộ. Trong sa mạc, Thiên Chúa ra lệnh điều tra dân số của các chi tộc Israel, theo từng đơn vị (Ds 1-2). Tâm điểm của cuộc tập họp (dân Chúa), với tư cách là người hướng đạo và mục tử duy nhất, là Chúa, người hiện diện qua chức vụ của Mô-sê (Ds 12; 15-16; Gs 8,30-35), …. Công hội của Thiên Chúa không chỉ bao gồm đàn ông (Xh 24,7-8) mà còn cả phụ nữ, trẻ em và thậm chí cả người ngoại kiều (Gs 8,33,35)...”[41]. 

1.1.3. Các ngôn sứ loan báo sứ điệp hoán cải để trung thành với Giao ước khi thiết lập những mối tương quan bác ái với anh em đồng loại: 
“Các ngôn sứ loan báo cho Dân Chúa sứ điệp về sự cần thiết của những khó khăn trong lịch sử để trung thành với giao ước. Đó cũng là lý do các ngôn sứ mời gọi hoán cải cõi lòng trở về với Thiên Chúa và thực thi công chính trong tương quan với những người xung quanh, nhất là những người nghèo, những người bị áp bức, khách kiều cư…, hoán cải nên nhân chứng hữu hình cho lòng thương xót của Thiên Chúa (Gr 37,21; 38, 1)[42]. 

1.2. Tân ước và cuộc “quy tụ xung quanh Đức Kitô”

1.2.1. Một đoàn dân của Giao ước mới quy tụ chung quanh Đức Kitô nhờ mầu nhiệm Vượt Qua: 
“Thiên Chúa hoàn tất giao ước mới mà Ngài đã hứa trong Chúa Giêsu thành Nazareth, Đấng Cứu Thế và Ngôi Lời. Bằng chính cuộc sống và con người, Tin mừng của Ngài (kérygma) đã mặc khải rằng Thiên Chúa chính là một hiệp thông của tình yêu; trong ân sủng và lòng thương xót, Ngài muốn ôm ấp toàn thể nhân loại trong sự hiệp nhất. Chúa Giêsu Con Thiên Chúa, từ cõi vĩnh hằng đã hiện hữu nơi cung lòng Chúa Cha (Ga 1,1.18), đã làm người khi tới thời viên mãn (Ga 1,14; Gl 4) để hoàn thành chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa (Ga 8,29; 6,39; 5,22.27). Ngài không bao giờ tự ý hành động một mình, nhưng trong mọi việc, Ngài thi hành ý muốn của Chúa Cha: Chúa Cha ngự trong Ngài và thực hiện công việc qua Người Con mà Chúa Cha đã ban cho thế gian (Ga 14,10).(…). Mầu nhiệm Vượt qua của Chúa Giêsu là cuộc xuất hành mới, quy tụ trong sự hiệp nhất tất cả những ai tin vào Ngài (Ga 11,52), và Ngài biến đổi họ qua Bí tích Rửa tội và Thánh Thể. Công trình cứu rỗi chính là sự hiệp nhất trong lời nguyện tế hiến trước cuộc Khổ nạn của Ngài: “để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con.” (Ga 17,21)[43]. 

1.2.2. Một Giáo Hội đang lữ hành trên đường cùng nhau nhờ Lời và Bánh Hằng sống của Đấng Phục Sinh đang đồng hành: 
“Chúa Giêsu là người lữ hành loan báo tin mừng về Nước Thiên Chúa (Lc 4,14-15; 8,1; 9,57; 13,22; 19,11), dạy “con đường của Thiên Chúa" (Lc 20,21) và dẫn lối đưa đường (Lc 9,51-19,28). Thật ra, chính Ngài là “con đường” (Ga 14,6) dẫn đến Chúa Cha; trong Chúa Thánh Thần (Ga 16,13) Ngài chia sẻ với mọi người sự thật và tình yêu hiệp thông với Thiên Chúa và với anh chị em của chúng ta. Sự hiệp thông sống động theo tiêu chuẩn của điều răn mới của Chúa Giêsu có nghĩa là cùng nhau bước đi trong lịch sử như là đoàn Dân của giao ước mới, theo cách phù hợp với hồng ân đã lãnh nhận (Ga 15,12-15). Thánh sử Luca cho chúng ta một biểu tượng sống về Giáo hội là Dân Chúa được Chúa phục sinh dẫn dắt trên đường qua trình thuật hai môn đệ trên đường Emmaus, người đã thắp sáng họ bằng Lời và nuôi dưỡng họ bằng Bánh Sự Sống (Lc 24,13-35)[44]. 

1.2.3. Mô hình đầu tiên của một "Giáo Hội hiệp hành”: Công nghị các Tông Đồ:
“Công vụ Tông đồ ghi lại một số thời khắc quan trọng trên con đường của Giáo hội Tông truyền khi Dân Chúa được gọi là cộng đồng để biện phân ý muốn của Đấng phục sinh. Nhân vật hàng đầu dẫn đường và đưa ra phương hướng là Chúa Thánh Thần, tuôn tràn trên Giáo hội vào ngày Lễ Ngũ Tuần (Cv 2,2-3). Các môn đệ, khi thực hiện các vai trò khác nhau của mình, phải lắng nghe tiếng nói của Thánh Linh và biện phân đường nào phải đi (Cv 5,19-21; 8,26,29,39; 12,6-17; 13,1-3 ; 16,6-7,9-10; 20,22). Đây là những ví dụ điển hình: sự lựa chọn “bảy người có tiếng tăm, tràn đầy Thánh Linh và khôn ngoan”, được các Tông đồ giao phó với nhiệm vụ “phân phát thực phẩm” (Cv 6,1-6); và biện phân các vấn nạn quan trọng trong sứ mạng dành cho dân ngoại (Cv 10). Vấn nạn này được giải quyết theo truyền thống được gọi là “Công nghị các tông đồ tại Giê-ru-sa-lem” (Cv 15, và cả Gl 2,1-10). Ở đó, chúng ta có thể thấy sự xuất hiện của tính hiệp hành, trong đó, Giáo hội tông truyền, trong một thời điểm quyết định của sự phát triển, thực hiện ơn gọi trong viễn tượng truyền giáo, được giác ngộ bởi sự hiện diện của Chúa phục sinh. Trải qua nhiều thế kỷ, sự kiện này đã được coi như là mô hình mẫu cho các Công nghị được Giáo hội cử hành.”[45]. 

1.2.4. Giáo Hội hiệp hành qua các đoàn sủng và chức vụ: 
“Quyền năng của Chúa Kitô được thể hiện trong Giáo hội thông qua nhiều linh ân hay các đặc sủng khác nhau mà Chúa Thánh Thần ban phát cho Dân Chúa để xây dựng một Thân thể Chúa Kitô. Khi thực hiện đặc sủng, chúng ta cần tôn trọng mỗi cá nhân, để đặc sủng có thể phát triển hài hòa và sinh hoa trái mưu ích cho tất cả mọi người (1 Cr 12,28-30; Êp 4,11-13). Các Tông đồ chiếm vị trí ưu tiên trong số họ - cùng với vai trò đặc biệt và ưu việt được Chúa Giêsu dành cho Thánh Phêrô (Mt 16,18..., Ga 21,15...): Thật ra, họ được giao phó sứ mệnh hướng dẫn Giáo hội trung thành với kho tàng đức tin (1 Tm 6,20; 2 Tm 1,12,14). Nhưng thuật ngữ Charisma cũng gợi lên tính cách nhưng không và đa dạng trong sáng kiến tự do của Chúa Thánh Thần, Người ban cho mỗi người ân huệ riêng để hướng đến lợi ích chung (x. 1 Cr 12,4-11; 29-30; Ep 4,7), để tùng phục và nâng đỡ nhau (1 Cr 12,25): vì ơn cao trọng nhất chi phối tất cả chính là tình yêu” (1 Cr 12,31)[46]. 

2. Truyền Thống và lịch sử liên quan đến khái niệm hiệp hành: 

2.1. Giáo huấn về hiệp hành nơi các Giáo Phụ trong ba thế kỷ đầu 
- Giáo phụ Ignatiô thành Antiokia: Nhấn mạnh tính “hiệp hành” qua “Cộng đoàn Thánh Thể”: “Vào đầu thế kỷ thứ hai, thánh Ignatiô thành Antiokia cho thấy rằng nhận thức mang tính hiệp hành của các Giáo hội địa phương đó là tự coi mình là hiện thân của một Giáo hội. Trong bức thư gửi cho giáo đoàn Êphêsô, ngài nói rằng tất cả các thành viên của giáo đoàn đều là ‘bạn đồng hành’, nhờ chính phẩm giá của phép Rửa và tình bạn với Chúa Kitô. Hơn nữa, ngài đề cao trật tự thiêng liêng là yếu tố làm cho Giáo hội trở nên một thân thể duy nhất, được kêu gọi ca ngợi sự hiệp nhất với Chúa Cha trong Chúa Giêsu Kitô: linh mục đoàn là nghị viện của Giám mục và các thành viên khác của cộng đoàn, dù vai trò có khác nhau, tất cả đều được kêu gọi chung tay xây dựng. Tính hiệp thông của giáo hội được thể hiện cách rõ ràng nhất qua cộng đoàn Thánh thể do Đức Giám mục chủ trì; cộng đoàn nầy nuôi dưỡng niềm tin và niềm hy vọng cánh chung, lúc Thiên Chúa tập hợp trong Vương quốc của Ngài tất cả các cộng đoàn đang sống và cử hành Thánh Thể trong đức tin.”[47]. 

- Giáo phụ Cypryano thành Carthage: Nhấn mạnh tính “hiệp hành” qua vai trò của “Tông Đồ đoàn”, và “Giám mục đoàn”: “Các đặc điểm để nhận Giáo hội thật đó là: trung thành với giáo huấn của các Tông đồ và cử hành Bí tích Thánh Thể dưới sự hướng dẫn của Đức Giám mục, người kế vị các Tông đồ; việc truyền chức; ưu tiên xây dựng hiệp thông trong việc phục vụ lẫn nhau để ca ngợi và tôn vinh Ba Ngôi: Cha, Con, Thánh Thần. Thánh Cyprianô thành Carthage, người kế thừa và giải thích truyền thống vào giữa thế kỷ thứ ba, đã xây dựng nguyên tắc liên quan đến giám mục và tính hiệp hành đó là phải điều hợp cuộc sống và sứ vụ vừa mang tính địa phương vừa trên phạm vi phổ quát: Giáo hội địa phương không làm gì được nếu không có Giám mục - nihil sine episcopo - cũng vậy, không làm gì được nếu không có công đồng (Bao gồm cả linh mục và Phó tế) - nihil sine consilio vestro - hoặc không có sự đồng thuận của mọi người - et sine consensu plebis - luôn luôn giữ theo quy tắc nầy: Hàng Giám mục là một, trong đó mỗi thành viên đều có chỗ - episcopatus unus est cuius a singulis in solidum pars tenetur.”[48]. 

2.2. Tính “hiệp hành” qua vai trò của các “Toà Thượng Phụ” và “Toà Thánh Rôma” “Từ thế kỷ thứ tư trở đi, các giáo tỉnh được thành lập; các giáo tỉnh nầy đã minh chứng và cổ vũ sự hiệp thông giữa các Giáo hội địa phương và được lãnh đạo bởi một Thượng phụ Giáo chủ. Theo quan điểm của công luận, bấy giờ đã có các công nghị giáo tỉnh, như những công cụ chuyên biệt nhằm thực hiện tính hiệp hành của Hội Thánh. Khoản luật thứ 6 của Công đồng Nicea (325) đã xác nhận tính ưu tiên và trổi vượt của các toà Rôma, Alexandria và Antiokia. Toà Constantinople đã được thêm vào danh sách các toà chính khi diễn ra Công đồng Constantinople I (381): Riêng khoản luật 3 đã trao chức chủ tịch danh dự cho vị Giám mục Rôma, Công đồng Chalcedon (451) đã xác nhận tước hiệu nầy, khi toà Giêrusalem được thêm vào danh sách. Ở phương Đông, chế độ “ngũ toà” này được coi là mô hình bảo đảm việc thực thi mối giây hiệp thông và tính hiệp hành giữa năm Toà Thượng phụ này. Trong khi công nhận vai trò của các Thượng phụ phương Đông, thì Hội Thánh phương Tây không coi Giáo hội Rôma như là một trong các tòa thượng phụ khác, mà trao cho toà Rôma vị thế đặc biệt là trung tâm của Giáo hội hoàn vũ.”[49]. 

2.3. Tính hiệp hành được biểu lộ qua cơ cấu “Công đồng”: 
“Vào cuối thế kỷ thứ ba và nổi tiếng ở phương Đông, Tông Tắc 34 đã xác định rằng bất kỳ quyết định nào vượt quá năng quyền của Giám mục địa phương phải được xử lý bởi Công nghị: “Các Giám mục của mỗi quốc gia phải xác nhận một người trong số họ là vị đứng đầu, và không làm gì đáng kể nếu không được vị nầy đồng ý… nhưng vị đứng đầu cũng không được làm gì nếu không có sự đồng thuận của tất cả.”[50]. “Từ thế kỷ thứ ba trở đi, mặc dù các Công nghị được thực hiện định kỳ ở cấp giáo phận và giáo tỉnh liên quan đến các vấn đề kỷ luật, phụng tự và giáo lý tại địa phương, vẫn có một xác tín rằng các quyết định được đưa ra là sự thể hiện sự hiệp thông các Giáo hội. Cảm quan mang tính giáo hội này là một dấu chỉ cho thấy rằng mỗi Giáo hội địa phương là biểu hiện một Hội Thánh Công giáo duy nhất; ….”[51]. 

“Về cách tiến hành thực hiện, các Công nghị địa phương trong Thiên niên kỷ thứ nhất, một mặt, theo Truyền thống Tông đồ và, mặt khác, theo các diễn trình thực tế, chịu ảnh hưởng bởi nền văn hóa của nơi tổ chức. Trong trường hợp Công nghị diễn ra tại một Giáo hội địa phương, về nguyên tắc, cả cộng đồng tham gia, mỗi nhóm theo vai trò tương ứng của mình. Trong các Công nghị cấp tỉnh, những người tham gia là các Giám mục của các Giáo hội khác nhau, mặc dù các giáo sĩ và tu sĩ có thể được mời đóng góp. Chỉ có các Giám mục tham gia các Công đồng Chung được cử hành trong Thiên niên kỷ thứ nhất. Chủ yếu chính các Công nghị Giáo phận và giáo tỉnh đã định hình thủ tục mang tính “thượng hội đồng” được chấp nhận trong Thiên niên kỷ thứ nhất.”[52]. 

2.4. “Dáng đứng hiệp hành” thời Trung cổ: 

- Cách vận dụng giữa Đông và Tây: 
“Kể từ đầu thiên niên kỷ thứ hai, tiến trình Công nghị dần dần mang những hình thức khác nhau giữa Đông phương và Tây phương, đặc biệt là sau biến cố phân ly giữa Giáo hội Constantinople và Giáo hội Rôma (thế kỷ 11), và khi các lãnh địa giáo hội thuộc các toà Thượng phụ Alexandria, Antiokia và Giêrusalem nằm dưới quyền kiểm soát chính trị của Hồi giáo. Trong các Giáo hội Đông phương, thủ tục của Công nghị vẫn theo truyền thống của các Giáo phụ, đặc biệt Công nghị cấp Toà Thượng phụ và Tổng Giáo phận, nhưng cũng có các Công nghị đặc biệt, trong đó các Thượng phụ Giáo chủ và Tổng Giám Mục tham gia. Ở Constantinople, sinh hoạt của một Công nghị thường trực được củng cố mạnh mẽ; sinh hoạt nầy cũng đã từng được biết đến từ thế kỷ thứ tư ở Alexandria và Antiokia, qua các công nghị thường trực để xem xét các vấn đề phụng vụ, giáo luật và thực hành với các hình thức khác nhau trong thời kỳ Byzantine và, sau năm 1454, trong thời kỳ Ottoman. Công nghị thường trực còn tồn tại cho tới ngày hôm nay nơi các Giáo Hội Chính thống.”[53]. 

- Áp dụng nguyên tắc hiệp hành giữa hai thẩm quyền: 
 Giáo Hoàng và Công Đồng: “Vào cuối thời Trung cổ, một tình huống duy nhất đã xảy ra trong cuộc ly giáo ở Phương Tây (1378-1417)[54], vào thời điểm một lúc có hai, thậm chí sau đó tới ba vị xưng danh là Giáo Hoàng. Công đồng Konstanz (Constance) (1414-1418) đã giải quyết vấn đề phức tạp này bằng cách áp dụng giáo luật khẩn cấp dự kiến trong tư duy giáo luật thời trung cổ, và tiếp tục bầu Giáo hoàng hợp pháp. Tuy nhiên, trong tình huống này, ý tưởng “duy công đồng” (conciliarist) đã phát triển, đi tới chỗ đặt Công đồng thường trực trên uy quyền nguyên thủy của Đức Giáo hoàng. Biện minh thần học và ứng dụng thực tế của chủ nghĩa duy công đồng được đánh giá là không phù hợp với Truyền thống. Tuy nhiên, nó để lại một bài học cho lịch sử Giáo hội: luôn có nguy cơ ly giáo nằm chờ, một điều không thể xem thường, và việc thường xuyên canh tân Giáo hội từ đầu cho tới chi thể (in capite et membris) sẽ không khả thi nếu không sử dụng đúng tiến trình hiệp hành, một cơ chế gắn kết với Truyền thống và truy nhận thẩm quyền tối thượng của Giáo hoàng như một bảo đảm cần thiết.”[55]. 

2.5. Hiệp hành trong thời cận đại và hiện đại 

- Công đồng Trentô và các cơ cấu chuẩn về các loại hình Công đồng, Công nghị:
 “Một thế kỷ sau, để đáp ứng với cuộc khủng hoảng Cải cách Tin lành, Giáo hội Công giáo đã triệu tập Công Đồng Trentô. Đó là Công đồng đầu tiên trong thời hiện đại với những đặc điểm nhất định: nó không còn là Công đồng Kitô giáo như thời Trung cổ; những người tham gia là các Giám mục cũng như Bề trên các Dòng tu và các Đan viện, trong khi các khâm sứ của các ông hoàng được tham dự nhưng không có quyền bỏ phiếu. Công đồng đã thiết lập một cơ cấu chuẩn là các Công nghị giáo phận nên diễn ra hàng năm, các Công nghị giáo tỉnh cứ ba năm một lần, như một cách truyền lại động lực canh tân của Công đồng Trento cho toàn Giáo hội. Một ví dụ điển hình là những gì Thánh Charles Bôrômêo đã thực hiện với tư cách là Tổng Giám mục của Milan. Trong chức vụ lâu dài của mình, ngài đã triệu tập năm Công nghị Giáo tỉnh và mười một công nghị giáo phận. Ở Mỹ, thánh Turibius của Mogrovejo đã thực hiện một điều tương tự: ông đã triệu tập ba Công nghị giáo tỉnh và mười ba giáo phận. Cũng có ba công nghị giáo tỉnh ở Mexico trong cùng thế kỷ. Để phù hợp với văn hóa của thời đại, các công nghị giáo phận và giáo tỉnh được cử hành theo mô hình Công đồng Trento, không nhằm đến sự tham gia tích cực của toàn thể Dân Chúa – đoàn thể giáo dân (Congregatio fidelium) - nhưng để thông qua, ban hành các quy tắc và quyết định của Công đồng…”[56]. 

- Chiều kích “hiệp hành” và sự đóng góp của các Giáo Hội Cải cách:
 “Các cộng đồng giáo hội được sinh ra từ cuộc Cải cách Tin lành thúc đẩy một cách tiếp cận nhất định mang tính hiệp hành, dựa trên giáo thuyết và thực hành mang chiều kích giáo hội, bí tích và truyền giáo theo Truyền thống Công giáo…”[57]. 

- Công đồng Vatican II và “định hướng mục vụ mang tính hiệp hành”: 
“Công đồng Vatican II tiếp tục đường hướng của Vatican I và biến nó thành một phần của chương trình “cập nhật hoá” (aggiornamento), thu lượm những lợi ích của những năm bản lề rồi tổng hợp lại cách phong phú dưới ánh sáng của Truyền thống….”[58]. 

- Hiện thực hoá tinh thần hiệp hành của Vatican II với định chế “Thượng Hội đồng Giám Mục”:
“Về phương diện tái thực thi “chiều kích hiệp hành” trên tầm mức Giáo hội hoàn vũ, Chân phước Phaolô VI đã thiết lập Thượng hội đồng Giám mục. Đó là một “Công nghị Giám mục thường trực cho Giáo hội hoàn vũ”, trực tiếp và tức thời chịu quyền lực của Đức Giáo hoàng, “cung cấp thông tin và đề xuất ý kiến tư vấn”, “cũng có thể được quyền quyết định khi được Đức Giáo Hoàng uỷ quyền”[59].

COMMENTS

Tên

Bác Ái,60,Bài Giảng Audio,69,Bản tin,1541,BảnTin,1,bâcsi,1,Cáo Phó,60,Chuyên đề,189,Cộng Đoàn,755,Đời tu,8,Gia đình Đa Minh,34,Giáo dục,129,Giáo Hội Hoàn vũ,699,Giáo Hội Việt Nam,353,Giới Thiệu,2,Góc Bếp,1,Hạnh Các Thánh,1,Hội Dòng,1033,Hội Thánh,307,Kiến Thức,69,Kiến Thức Phổ Thông,2,Lời Chúa,3,Mùa Chay và Phục Sinh,1202,Mùa Thường Niên,2344,Mùa Vọng,1,Mùa Vọng và Giáng Sinh,508,Mục Vụ Giáo Xứ,74,Nhà An Dưỡng,4,Nhà Huấn Luyện,182,Núi Thánh Phục Sinh,1,Phụng vụ,3,Radio,126,Radio Tâm Ca,83,RVA,23,Suy Niệm,4611,Suy niệm,1092,Suy Tư,2,Suy Tư - Cảm Nghiệm,687,Sứ Vụ,47,Sư Vụ,4,Sứ vụ,218,Sứ Vụ Giáo Dục,4,Sức khỏe,119,Sưu Tầm,141,Tài liệu,519,Tập San Lên Đường,564,Thần Học,1,Thế giới nhìn từ Vatican,1,Thông Tin,947,Thời Sự,455,Trong nước,2,Truyền Giáo,6,Vatican News,11,Văn Bản,23,Văn Hóa Nghệ Thuật,1985,Văn-Thơ,1,vi,2,Video Clips,1601,Video Nhạc - Phim,568,Videos,7,Youth Radio,52,
ltr
item
HỘI DÒNG NỮ ĐA MINH GÒ VẤP: Chúng tôi cùng đi với anh - Ý nghĩa “Hiệp Hành" (Phần III)
Chúng tôi cùng đi với anh - Ý nghĩa “Hiệp Hành" (Phần III)
Chúng tôi cùng đi với anh - Ý nghĩa “Hiệp Hành" (Phần III)
https://blogger.googleusercontent.com/img/a/AVvXsEgz0z3kjQVadc3YXPHYH2S3t_jKjeH8K84gL-GUzD4HFTpH1sjNmsPFnHkQbppB89aIj_LEU_tTE15AGUDe3l-cuaJmN7nwlRgDtcSueypvgDD8FIgasoUTYDeU5BBzWOv4_JveO8iypWRLr9_nCFKWq3d281sFbyNQSaRfWIa9T7CYysv94Z4ZkKuK=w708-h398
https://blogger.googleusercontent.com/img/a/AVvXsEgz0z3kjQVadc3YXPHYH2S3t_jKjeH8K84gL-GUzD4HFTpH1sjNmsPFnHkQbppB89aIj_LEU_tTE15AGUDe3l-cuaJmN7nwlRgDtcSueypvgDD8FIgasoUTYDeU5BBzWOv4_JveO8iypWRLr9_nCFKWq3d281sFbyNQSaRfWIa9T7CYysv94Z4ZkKuK=s72-w708-c-h398
HỘI DÒNG NỮ ĐA MINH GÒ VẤP
https://www.daminhgovap.org/2021/12/chung-toi-cung-i-voi-anh-y-nghia-hiep_0.html
https://www.daminhgovap.org/
https://www.daminhgovap.org/
https://www.daminhgovap.org/2021/12/chung-toi-cung-i-voi-anh-y-nghia-hiep_0.html
true
3295611318363260226
UTF-8
Loaded All Posts Not found any posts VIEW ALL Xem bài Reply Cancel reply Delete Bởi Home TRANG POSTS View All RECOMMENDED FOR YOU NHÃN ARCHIVE SEARCH ALL POSTS Không tìm thấy bài viết phù hợp với yêu cầu Back Home Sunday Monday Tuesday Wednesday Thursday Friday Saturday Sun Mon Tue Wed Thu Fri Sat January February March April May June July August September October November December Jan Feb Mar Apr May Jun Jul Aug Sep Oct Nov Dec just now 1 minute ago $$1$$ minutes ago 1 hour ago $$1$$ hours ago Yesterday $$1$$ days ago $$1$$ weeks ago more than 5 weeks ago Followers Follow THIS PREMIUM CONTENT IS LOCKED STEP 1: Share to a social network STEP 2: Click the link on your social network Copy All Code Select All Code All codes were copied to your clipboard Can not copy the codes / texts, please press [CTRL]+[C] (or CMD+C with Mac) to copy Table of Content