Góc Suy Gẫm - Mt 5, 43-48; thứ Ba, tuần XI Thường niên
Góc Suy Gẫm - Mt 5, 43-48; thứ Ba, tuần XI Thường niên
Góc Suy Gẫm – Mùa dịch Covid-19
1. Chuyện chúng mình:
ĐHY GEORGE PELL: TÔI ĐÃ THA THỨ CHO NHỮNG NGƯỜI BUỘC TỘI TÔI
Trong cuộc phỏng vấn dành cho Vatican News, nhân dịp sinh nhật lần thứ 80, khi nói về trải nghiệm 13 tháng tù, Đức Hồng y George Pell khẳng định: bằng cách kết hợp với đau khổ của Chúa Giêsu, đã giúp ngài rất nhiều để sống những đau khổ, để có thể tha thứ, và luôn tin rằng Chúa Giêsu ở đàng sau tất cả những gì đã xảy ra với ngài. Câu hỏi đầu tiên của phóng viên liên quan đến thời gian phải bị tù. Đức Hồng y nói, ngài không bao giờ nghĩ rằng mình sẽ phải chịu ngồi tù. Ngài đã chiến đấu hết sức để điều này không xảy ra, nhưng thật đáng buồn là đã không thành công. “Đó là sự kết hợp của hoàn cảnh, dối trá và lừa dối”, ngài nhận định.
Khi được hỏi động lực viết “Nhật ký trong tù”, nguyên Tổng trưởng Bộ Kinh tế trả lời: “Tôi nghĩ điều này có thể giúp cho những ai đang gặp khó khăn, những ai phải đau khổ như tôi đã trải qua. Rồi tôi nghĩ nhật ký sẽ đem lại ích lợi cho lịch sử, bởi vì không có nhiều hồng y đã trải nghiệm trong tù. Nhưng tôi cũng khám phá ra rằng có nhiều tù nhân đã dành thời gian này cho việc viết, chẳng hạn như thánh Phaolô. Viết trong khi ở tù là một liệu pháp tốt”.
Đức Hồng y khẳng định, đức tin và cầu nguyện cũng như những lời dạy của Giáo hội đã giúp ngài rất nhiều trong những tháng bị giam giữ. Ngài giải thích: “Là Kitô hữu chúng ta biết rằng chúng ta được cứu chuộc bởi cuộc khổ nạn và cái chết của Con Thiên Chúa. Sống theo giáo huấn về giá trị của đau khổ thực sự thay đổi tất cả, như trong hoàn cảnh của tôi. Tôi tin vào sự quan phòng của Chúa, mặc dù đôi khi không hiểu Chúa đang làm gì. Nhưng tôi luôn tin rằng chính Chúa đứng đàng sau tất cả những gì đang xảy ra”.
Nói về sự tha thứ, Đức Hồng y thừa nhận rằng điều này không dễ dàng. Nhưng một khi đã quyết định tha thứ thì sẽ thực hiện được. Ngài nói, thực tế, ngài không cảm thấy khó tha thứ cho người đã tố cáo ngài. Bởi vì ngài biết đó là một người đã đau khổ và sống trong tình trạng bối rối.
*Đức Hồng y Pell nguyên là Tổng trưởng Bộ Kinh tế của Tòa Thánh, bị kết án vào năm 2018 về nhiều tội lạm dụng tình dục. Vào ngày 07/4, Tòa án Tối cao phán quyết ngài vô tội vì các Tòa cấp dưới đã không giải thích được sự nghi ngờ hợp lý.
Ngọc Yến
(vaticannews.va 09.06.2021)
(Nguồn: http://giaophanlongxuyen.org/tin-tuc/dhy-george-pell-toi-da-tha-thu-cho-nhung-nguoi-buoc-toi-toi.html)
3. Khuôn vàng thước ngọc (Mt 5, 43-48; thứ Ba, tuần XI Thường niên)
Trích đoạn Tin mừng hôm nay lại một lần nữa cho thấy, Lời Chúa luôn là lời mời gọi. Lời ấy không cho phép chúng ta dừng lại mà không nỗ lực vươn lên trong đời sống. Thật thế, nếu như Tin mừng của ngày hôm qua, Đức Giêsu chỉ đòi chúng ta phải tha thứ, không được tìm cách báo thù; thì hôm nay, Ngài lại đòi chúng ta phải đi xa hơn: không chỉ tha thứ, không chỉ đừng báo oán mà còn phải yêu thương và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi mình nữa. Trong đó, cầu nguyện là dấu chỉ chắc chắn về sự tha thứ. Có hai lý do khiến chúng ta phải tha thứ và yêu thương. Thứ nhất, vì tất cả chúng ta đều là con cái của cùng một Cha trên trời, Đấng hằng thi ân cho hết thảy. Thứ hai, là môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta phải tha thứ và yêu thương hơn những người dân ngoại và cả người Do Thái nữa.
Chúng ta đừng ngạc nhiên về những đòi hỏi ấy của Chúa. Đành rằng con tim có lý lẽ của nó mà lý trí con người không sao lý giải được, nhưng không lý giải được không có nghĩa là vô lý, không có nghĩa là không thể chấp nhận được. Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay đã cho chúng ta thấy cái lý của con tim như sau: “Nếu anh em chỉ yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em có công chi. Ngay cả những người thu thuế, vốn bị coi là tội lỗi, cũng chẳng làm như thế sao? Và nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ. Ngay cả người ngoại giáo chẳng làm như thế sao?” Ngài chỉ vẽ tỉ mỉ là vậy nhưng xem chừng chúng ta vẫn chỉ sống ở mức độ trung dung, có qua có lại, tức là sẵn sàng yêu thương những ai yêu thương mình hoặc vui vẻ xã giao với những người mà ta quý mến; còn với những người khác thì khá chừng mực, đôi khi tỏ dấu hoài nghi. Chúa không muốn chúng ta sống nửa vời như vậy. Ngài muốn nhấn mạnh rằng, chỉ khi nào chúng ta dám sống theo cái lý của con tim, chúng ta mới xứng đáng được gọi là con Thiên Chúa, Đấng ngự trên trời.
Đọc Tin mừng chúng ta sẽ thấy, Đức Giêsu không hề nhân nhượng; trái lại, Ngài tỏ thái độ cương quyết chống lại sự dữ, thói giả hình và nhất là những gì gây xúc phạm đến Thiên Chúa cũng như con người. Thế nhưng, đối với tội nhân, Đức Giêsu lại có thái độ hoàn toàn khác. Ngài luôn tỏ ra khoan dung và đại lượng đến độ người ta dễ có cảm tưởng như Đức Giêsu dung túng cho kẻ có tội. Đức Giêsu không hề kết án bất cứ ai. Ngài làm bạn với những người bị coi là phường tội lỗi và quân thu thuế. Hơn thế nữa, Ngài còn yêu thương và tha thứ cho chính những kẻ chống đối cũng như giết hại mình. Qua hành động này, Đức Giêsu mặc khải cho chúng ta thấy được tình thương lớn lao của Thiên Chúa đối với nhân loại; đồng thời Ngài cũng chỉ cho thấy, ơn gọi của chúng ta không chỉ là yêu thương mà còn phải yêu thương cả kẻ thù, ngõ hầu được trở nên hoàn thiện như “Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”. Đây không phải là một khuôn mẫu giáo điều nhưng là một đòi hỏi tất yếu đối với con người đến độ, chúng ta chỉ có thể sống xứng danh là một Kitô hữu khi chúng ta biết sống yêu thương và tha thứ như Thiên Chúa.
Cũng nên nhớ rằng, chỉ những ai đủ thành tâm thiện chí và tin vào Đức Giêsu thì mới có khả năng thực thi huấn lệnh này cho tới cùng được. Nói một cách khác, những ai có Đức Giêsu ngự trong lòng thì khi ấy, sự cay đắng mới chết đi và nhường chỗ cho tình thương trổ sinh hoa trái. Thế gian này sẽ tốt đẹp biết bao nếu như hết thảy mọi người sống theo tinh thần của Bài giảng trên núi; nhưng chắc rằng, không ai có thể sống các giá trị ấy cách trọn hảo nếu không có Chúa trợ giúp. Chúng ta cần ơn Chúa để đủ sức mà tuân giữ mệnh lệnh Ngài ban. Và cuối cùng, điều quan trọng hơn cả là không ai trong chúng ta có thể cầu nguyện cho người khác mà trong lòng vẫn còn ghét, còn thù hằn với họ. Đức Giêsu đã chỉ cho chúng ta con đường chắc chắn nhất để tiêu diệt sự cay đắng, đó là cầu nguyện cho những người ngược đãi và bách hại chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho chúng con trong mọi việc mình làm, chỉ biết khao khát và tìm kiếm một phần thưởng duy nhất là chính Chúa. Xin ban cho chúng con một tâm hồn quảng đại, một quả tim tràn đầy yêu thương và một cái nhìn khoan dung nhân hậu. Xin dạy chúng con luôn biết cảm thông thay cho chấp nhất, tha thứ thay cho thù hận, yêu thương thay cho ghen ghét; biết đem niềm vui nâng đỡ những ai sầu muộn và xóa tan tuyệt vọng đơn côi. Xin cho chúng con luôn biết xả thân vì Chúa và vì mọi người bằng tình thương mến như Chúa mời gọi.
4. Lời bàn
- "Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình", đó là mệnh lệnh được ghi rõ trong sách Lêvi (19,18). Nhưng “đồng loại” được nhắc đến ở đây chỉ giới hạn vào những người thân thuộc, những người đồng hương, người cùng làm việc ở một cánh đồng, xa hơn là cùng một bộ lạc; cùng lắm là chung dòng máu Do Thái, là con cháu của Abraham, tức là những người thuộc về dân riêng của Chúa. Ngoài những người đó ra, họ không có bổn phận phải yêu mến. Còn vế câu: "Hãy ghét kẻ thù" thì chúng ta không gặp thấy công thức nào tương tự như vậy trong Kinh thánh. Có lẽ chúng ta nên hiểu kiểu nói (Aram) của Đức Giêsu chỉ có nghĩa là không phải yêu kẻ thù như yêu bạn (so sánh Lc 14,26 với Mt 10,37). Tuy nhiên trong sách Huấn ca (12,3-7) và trong một số tài liệu ở Cumran thì có nói đến thái độ, “gớm ghét những kẻ tội lỗi, những con cái của sự tối tăm, kẻ thù của con cái sự sáng”. Những lời này có thể hiểu như một diễn tả tự nhiên của tâm lý thường tình nơi con người, một hậu quả của tình yêu thương có giới hạn trong khung cảnh những kẻ thân thuộc, những người thuộc về cùng một dân tộc, một xã hội. Theo tâm thức hạn hẹp của Cựu ước, bất cứ ai không thuộc về dân Chúa chọn, thì người đó là kẻ xa lạ, là kẻ thù địch, không được yêu thương. Đời sống đức tin của chúng ta thể hiện ra nơi cộng đoàn, nơi giáo xứ có khá hơn cách hành xử của những người Do Thái năm xưa không? Tôi e rằng còn rất chuyện để bàn, bởi vì đôi khi, óc bè phái hoặc cách xử trí đầy tính cục bộ đã cày xéo tinh thần cộng đoàn, chứ đừng nói tới việc hướng đến một tình yêu đại đồng, không phân biệt tôn giáo hay văn hóa.
- Đức Giêsu đã đến để mặc khải một sứ điệp trọn hảo hơn, bẻ gãy những giới hạn tự nhiên: "Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em". Không còn nghi ngờ gì nữa, đây chính là những thử thách thực sự đối với đời sống đức tin của tất cả chúng ta. Nó đòi hỏi chúng ta phải yêu thương người khác dù họ có sỉ nhục, làm tổn thương hay gây ra phiền muộn thì chúng ta cũng không bao giờ để cho sự cay đắng, hậm hực xâm chiếm tâm hồn; đối lại, chúng ta vẫn phải tôn trọng người ấy với tất cả thành tâm thiện chí và chỉ tìm điều lợi ích nhất cho họ. Vấn đề được nêu ra ở đây là, Chúa có thực sự đòi hỏi chúng ta phải yêu thương kẻ thù như người thân cận không? Tôi cho là vừa có lại vừa không. CÓ theo nghĩa là ở đó không còn ai bị loại ra khỏi tình thương của người môn đệ, tức là không còn ranh giới giữa người thân thuộc với thù địch. KHÔNG theo nghĩa là Đức Giêsu chẳng bao giờ đòi buộc chúng ta phải yêu kẻ thù như những người chúng ta yêu mến nhất, tựa như những người cùng ruột rà máu mủ. Cần phân biệt một chút ở đây. Với người thân, chúng ta yêu thương họ theo một lẽ rất tự nhiên, không cần tìm kiếm bởi vì nó được Chúa phú ban sẵn ở trong tâm hồn. Trong khi đó, đối với kẻ thù của mình, Chúa muốn chúng ta yêu thương họ không phải chỉ ở tấm lòng nhưng còn thuộc về phạm vi ý chí. Nói khác đi, để yêu thương được kẻ thù, chúng ta cần phải vận dụng ý chí để vượt thắng khuynh hướng thuộc bản năng tự nhiên. Dù sao đi chăng nữa, khi đứng trước đòi hỏi này, tôi thấy mình kém hẳn tự tin; nói trắng ra là nó quá khó đối với bản thân mình. Tôi đành chọn cho mình cách thế dễ thực hiện hơn đó là cầu nguyện cho họ và cho cả chính tôi.
- Chúng ta bắt gặp thấy chiếc chìa khóa để hiểu được bản văn này nhưng nó lại trở thành một trong những câu Kinh thánh khó hiểu nhất nơi toàn bộ Tân ước: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”. Mới nghe qua, dường như đây là một mệnh lệnh chẳng liên quan gì đến chúng ta vì không ai dám mơ tưởng đến sự trọn lành như Chúa. Có lẽ chúng ta nên mượn lối cắt nghĩa của tư tưởng Hy Lạp để rút ra đôi nét căn bản của mệnh lệnh này. Trọn lành hay hoàn thiện trong tiếng Hy Lạp là teleios. Thực ra, nó có một ý nghĩa rất đặc biệt không dính dáng gì đến cái mà chúng ta nói về một sự trọn lành trừu tượng hay triết lý hoặc siêu hình. Đơn giản thế này: Một con vật được coi là teleios và xứng đáng được dùng làm lễ vật dâng lên Thiên Chúa một khi nó không mang chút tì vết nào. Một người trưởng thành cũng được gọi là teleios, khác biệt với một em bé. Một sinh viên đạt đến một trình độ có khả năng nắm vững các môn mình đã học cũng được coi là teleios so với người mới cắp sách tới trường. Như vậy, khái niệm trọn lành là một khái niệm thuộc về chức năng, tức là một vật hay ai đó đạt đến mục đích của mình như kế hoạch ban đầu đề ra. Cho nên, chúng ta cũng sẽ được gọi là teleios một khi chúng ta hoàn thành mục tiêu, ngang qua việc hiện hữu, là được trở về bên Chúa, trở nên giống như Chúa. Nghe qua thì có vẻ xa vời nhưng nếu chúng ta đọc lại câu chuyện trong sách Sáng thế, chúng ta sẽ nhận thức được rằng, ngay từ đầu, con người được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu, đây được xem là một tiền đề quan trọng. Ngài thương yêu hết thảy mọi người, bất luận tốt xấu và cũng chẳng kể người nào đó là công chính hay bất lương. Thiên Chúa là Đấng bao dung vô hạn, Người chậm giận và giàu tình thương. Những đặc điểm này là quy chuẩn để mọi người quảng diễn nó ra trong đời sống thường ngày. Nói khác đi, bao lâu chúng ta chưa thực thi sự tha thứ và bao dung như Chúa muốn; bao lâu chúng ta chưa thương yêu người khác, chưa dám hy sinh cho người khác thì bấy lâu chúng ta chưa thể nên trọn lành như Cha trên trời. Như vậy, lời mời gọi nên trọn lành không phải là thứ khiến chúng ta hoảng sợ hay mơ hồ, thực ra nó rất hiện sinh. Những nỗ lực trong đời sống thường ngày sẽ giúp chúng ta lấy lại hình ảnh ban đầu bên Đấng Tạo Thành, khi đó chúng ta sẽ nên giống Chúa. Hay nói một cách khác, nhờ tuân giữ các điều răn mà con người nên hoàn thiện, nhưng phải giữ theo tinh thần và sự giải thích của Đức Giêsu, có như thế người môn đệ mới thật sự xứng danh là con cái Cha trên trời.
- “Tôi tin vào sự quan phòng của Chúa, mặc dù đôi khi không hiểu Chúa đang làm gì. Nhưng tôi luôn tin rằng chính Chúa đứng đàng sau tất cả những gì đang xảy ra”, đức Hồng y George Pell đã nói những lời này trong một cuộc phỏng vấn nhân dịp ngài mừng sinh nhật lần thứ 80. Hiểu được bối cảnh ẩn đàng sau những lời này, chúng ta mới thấm được từng lời mà vị Hồng y cao niên này nói. Ngài thẳng thắn chia sẻ: “Tôi đã tha thứ cho những người tố cáo tôi”; nhưng đồng thời ngài cũng cho biết, việc tha thứ này chẳng dễ dàng gì. Thế mới hay: “Lúc còn trẻ không biết, cứ nghĩ rằng chỉ một chút thương tổn thôi là bản thân cũng sẽ không chịu đựng nổi. Sau khi đã trải qua mưa gió nhấp nhô trong cuộc sống, mới biết qua những ngày tháng dài đằng đẵng của một kiếp người thì không có gì là không tha thứ, không có gì là không thể buông tay” (Diệp lạc Vô Tâm). Nhiều người có lẽ đã cười hả hê khi Hồng y George Pell bị tống vào ngục; nhưng rồi chính họ đã tức điên lên khi ngài ra khỏi đó với lời tuyên án vô tội. Đức Hồng y đã chào đón những ngày tháng ở buổi hoàng hôn cuộc đời trong vòng lao lý; chắc chắn đó là một nỗi khổ tâm cùng cực, nhưng cuối cùng ngài đã vượt thắng nó nhờ liên kết những đau khổ phải chịu với những đau khổ của Đức Giêsu. Sự tha thứ thay cho những lời oán trách sẽ khiến cho ngài cảm thấy nhẹ lòng trước biến cố vừa trải qua. Về điểm này, Napoleon Bonaparte cũng từng chia sẻ những điều thú vị: “Ta phải học cách tha thứ và không giữ một thái độ tinh thần thù địch hay cay nghiệt, thứ sẽ làm người quanh ta khó chịu và ngăn cản ta thưởng thức bản thân mình. Ta phải nhận ra những thiếu hụt của bản thân và điều chỉnh mình phù hợp với chúng thay vì luôn luôn tìm thấy lỗi sai ở chúng”. Tha thứ là một việc khó, không thể nói là làm được ngay; nhưng không phải vì vậy mà ta không tìm cách để hiện thực nó. Hãy chọn lựa cách giản đơn hơn để làm ngay và luôn: Cầu nguyện cho những người chưa đủ dễ thương, cho những người làm ta tổn thương và cho cả những người ngược đãi chúng ta nữa. Chẳng lẽ chúng ta hà tiện đến mức dè xẻn cả những lời nguyện cầu hay sao?
Viết Cường, O.P.
COMMENTS