Đời Làm Hạt - Truyện Dài – Xuân Cát

ĐỜI LÀM HẠT
Tác giả: Maria Đỗ Thị Hồng Nhanh
Học viện Têrêsa Avila - Dòng Đa Minh Gò Vấp (Lạng Sơn)
Tác phẩm đạt giải Khuyến khích - thể loại truyện dài
Cuộc thi “Sáng tác Văn hóa – Nghệ thuật Đất mới 2019” của Giáo phận Xuân Lộc
Chương mở đầu: Bên lò rèn
“Anh Hòa, anh kể chuyện chị Huyền cho em nghe
đi!”
Không biết bao lần Hải nằng nặc đòi anh kể
chuyện về chị Huyền cho nghe, bởi mấy lần lên Nhà Mồ Côi thăm các em khuyết
tật, nó được các dì nhắc đến cái tên ấy, nhưng đều nhận được câu trả lời: “em
còn nhỏ”.
Năm nay Hải đã mười hai tuổi, đúng tuổi Chúa
Giêsu lên đền thờ ngồi giữa các Thầy để giảng dạy, nên nó nghĩ, mình cũng đã
lớn!.
Ngồi xung quanh lò lửa thật ấm áp làm sao,
những ngọn lửa tí tách từ cái lò rèn thật là thích thú. Hải ngồi quay chiếc
quay gió nhân tạo theo đà ròng rọc nằm ngang mà anh Hòa chế thủ công để thổi
gió vào bếp lò những lúc cần độ cháy to. Mắt Hải rất thích ngắm nhìn những tia
lửa sáng phát ra từ những chiếc búa tạ được nện xuống do bàn tay lực lưỡng của
anh, mặc âm thanh ấy được xem là chát chúa đối với dân làng nhưng Hải vẫn cứ
đứng nhìn thứ ánh sáng ấy, ánh sáng mà do cả trái tim và tâm hồn của anh đặt
vào đó để có được những lưỡi cuốc, lưỡi liềm, cái dao…. sắc bén. Tự thâm tâm
Hải vẫn gọi đó là âm thanh yêu thương, âm thanh của lòng nhân ái, nên cả khi
đêm về, hay những ngày anh nghỉ làm, Hải vẫn cảm thấy lò lửa như còn nóng hổi,
vẫn khẽ tí tách vang lên âm điệu thân thương.
Vụ lúa đông xuân vừa mới cấy xong, ai nấy lo
lắng dọn dẹp nhà cửa để đón mùa xuân mới. Cầm những chiếc liềm cuối cùng trên
tay, Hòa cho vào lò lửa nung cho thật đỏ rồi lại đem ra lấy chiếc búa tạ đập
cho hết lớp gỉ trên bề mặt, sau đó anh lại đem vào nung, rồi lại đập, cứ thế,
cứ thế, cho đến khi anh thấy chiếc liềm đó thật bén mới cẩn thận đem ra cắt
từng chấu liềm. Ai cũng bảo anh Hòa ít nói, anh chỉ cười nhiều, nhưng Hải thấy
mỗi lời anh nói ra đều là một bài học.
Chiếc liềm cuối cùng được cất gọn trong ngăn
bàn, Hải phụ anh quét dọn những mảng gỉ sắt và bụi tàn của bếp than bay xung
quanh cho sạch. Rít một điếu thuốc lào thật dài, Hòa thở ra từng mảng khói nhỏ,
rồi vỗ vỗ lên vai Hải nói: “ Ngày mai anh sẽ đưa em lên cộng đoàn các dì thăm
các em khuyết tật, anh sẽ kể cho em nghe, được chứ!”
Chương 1. Sứ vụ đầu tiên
Men theo bờ đê sông Hồng, Như Huyền vừa đi vừa
ngắm nhìn dòng nước màu hồng đào đang lững thững chảy, vì đó là mùa thu nên
dòng nước trôi rất nhẹ và màu nước cũng trong hơn mùa hè, nhưng thỉnh thoảng có
những soáy nước to nhỏ khác nhau vẩn theo lớp cát mịn đục ngàu. Cô nghe kể cách
đây 4 năm, tức năm 2000, dòng nước cạn lắm, nhìn từ bờ đê bên này sang nên kia
có chỗ chỉ 2km, thỉnh thoảng có những mô đất nhô lên ở giữa sông, dân ùa vào
trồng những cây hoa màu ngắn hạn như ngô, vừng và các loại rau. Cách con đê
chừng 3km, Như Huyền rẽ vào một con đường đất khác để tới cộng đoàn. Dì Thanh
đã chờ sẵn ở đó. Hít một hơi thật sâu, cô tận hưởng cảm giác bình an đang hòa
quyện cùng gió sông với đầy hương sắc của cảnh vật nơi đây.
Vừa đặt mình xuống giường, đôi mắt Như Huyền đã
nhắm nghiền để hưởng trọn giấc ngủ no tròn, bù lại những ngày chập chờn trên
chiếc xe khách nam bắc. Những làn gió tế nhị nhẹ nhàng kéo thêm hương cỏ đồng
nội ùa qua song cửa để chăm sóc cho người nữ tu đơn sơ này. Bỗng nhiên, những
làn gió như bị xé toạc bởi giọng hát không kiểm soát của người đàn ông, được
một lúc mặt ông lại bí xị như có điều gì không vừa ý, nhưng liền ngay đó ông lại
nở nụ cười như đang nói chuyện với ai đó, dù mái tóc có vẻ bợm xợm không chải
chuốt xen lẫn những múp tóc chảy dài từ trên đỉnh đầu xuống có thể do bị ướt ở
đâu đó nhưng không làm giảm độ thu hút của một giọng cười giòn giã hiếm có của
một người đàn ông tuổi trung niên. Có thể cũng như những người mất trí khác hát
một liên khúc những bài ca vô hồn rồi cười ha hả một tràng sảng khoái với cuộc
đời, nhưng điều gì đó làm cho cô bận tâm giữa đêm khuya ắng lặng như vậy. Không
biết từ lúc nào cô đã ngồi gọn trên mặt thành bức tường bao, chỗ không cắm mảnh
chai vỡ để nhìn cho rõ, chẳng phải chờ lâu cô đã thấy rõ tướng mạo của ông thật
bình thản, với chiếc quần rêu bạc và áo màu nâu xám hiện nơi dáng vẻ của một
người từng trải. Giật mình, cô quay lại bởi tiếng dép của Dì Thanh.
-
“Con
làm gì ở đó vậy, vào ngủ cho khỏe!”
Như Huyền quay lại nói vẻ thương cảm
-
“Người
đàn ông kia tội nghiệp Dì nhỉ”.
Dì Thanh vặn người rồi đưa tay nói trong tiếng
ngáp:
-“Trời, ông điên cũng ra xem! tưởng gì”. Vào
đến cửa phòng dì nói tiếp: “Chúa ban cho mỗi người một thánh giá con ạ”.
Thế rồi cô vào phòng của mình dâng người đàn
ông tội nghiệp ấy xin Chúa giữ gìn, những suy tưởng về hình ảnh người đàn ông
trung niên dần dần cũng bị chôn vùi trong giấc ngủ.
Cuộc sống giữa vùng Vạn Thủy này thật êm ả với
những con người chân chất mộc mạc còn giữ lại những kỷ tâm đáng quý giữa xã hội
đang trên đà tục hóa, ngồi bên cạnh đám trẻ con đang quây quần bên quả mít tròn
trịa, chi chít toàn gai như con nhím, nhưng tỏa ra khắp không gian một mùi
hương thật quyến rũ, mùi hương quen thuộc bay loang cả xóm đạo, gọi hết đám trẻ
con tụ tập về đây. Bên cạnh là vườn hoa táo trắng muốt đang phát triển từng
ngày, gợi thêm hứng chờ đợi của đám trẻ con, nơi vườn táo một mùi mát rượi làm
sảng khoái đầu óc, nhưng hãy còn yếu lắm khi tranh đấu với mùi mít chín này,
tất cả những điều nho nhỏ cũng đủ làm cho cô vô cùng thích thú. Dì Thanh cũng
đã ngoài năm mươi nhưng tâm hồn Dì trẻ lắm, dì luôn động viên trước những công
việc mới của giáo xứ làm cho cô bình yên để phục vụ. Cô thấy tâm hồn mình cũng
quảng đại giữa cánh đồng truyền giáo mênh mông này, bởi vậy cô muốn dấn thân
hết mình trong tập hát và dạy giáo lý ở đây. Bên cạnh cộng đoàn là những cây xà
cừ cổ thụ của nhà xứ, với những tán lá rậm nhưng vẫn nhẹ nhàng đong đưa qua
những làn gió không tới tấp, vui vẻ hát lên khúc ca rì rào mà không hề biết
rằng chúng sẽ phải thay phiên nhau chia tay cây mẹ để đi vào thế giới của sự úa
tàn.
Bữa cơm của hai nữ tu trong một mái nhà thật
ấm áp, ai cũng thương và thỉnh thoảng cho những mớ rau, củ quả để ăn qua ngày. Cô
học được nơi họ tấm lòng chân thành mộ mến Chúa, nhất là những tiếng kinh râm
ran cả ngày, cô chia sẻ với Dì Thanh: “dân ở đây sống đạo tốt dì nhỉ”.
-
“Ùm,
nhưng cũng có phần hình thức đó, họ dễ loại trừ những thành phần thiếu nhân
cách của xã hội lắm”.
Cô chợt nhớ đến người đàn ông hát giữa đêm
ngay ngày đầu tiên cô mới đến, vì thế cô hỏi tiếp. “Thế những người bệnh tật họ
loại trừ hết hả dì”?
-
“Cũng
không hẳn như thế, nhưng có lẽ những người tội phạm hay người điên điên khùng
khùng thì họ khinh lắm”.
Như Huyền nghiêng người vẻ trịnh trọng
-
“Thế
người đàn ông mà đêm đầu tiên con thấy đó đi đâu rồi dì nhỉ?”
Dì Thanh vừa chép miệng vừa ra chiều suy nghĩ:
“Chắc tổ dân phố không tiếp vì ông từ nơi khác đến. À chiều nay cha xứ và cha
phó mời hai dì vào ăn cơm mừng bổn mạng giáo xứ đó, bây giờ con ra chợ mua ít
quà cho giáo xứ nhé”.
Nói rồi, rất nhanh gọn để cô phóng chiếc xe
đạp bon bon giữa lòng đường trải nhựa phẳng lì, hai bên đường là những rặng cây
xà cừ to lớn, với những cành non cong xuống một cách yểu điệu, nhưng cô cũng
không có nhiều thời gian để thưởng thức vì trời đã quá trưa. Lắt qua con lộ là tới
cầu Trung Hà, tới giữa cầu cô như có cảm giác điều gì đó không ổn, vừa cùng lúc
ngoái đầu lại thì chiếc Honđa lao tới.
Két…..kẹt…rầm….
Ối! ối, xe xe.. máy
Thốt lên rồi, theo phản xạ tự nhiên, Như Huyền
nhảy thật nhanh lên làn đường dành cho người đi bộ, nhưng chân trái không may đã
mắc kẹt vào nan hoa phía sau xe máy của người thanh niên đang lái xe trong tình
trạng ngủ gật, tức thì bánh xe quay tít thật mạnh đã cuốn chân cô bật vào dè
sau của yên xe, phần bắp chân dính chặt vào phuộc nhún. Độ phóng của chiếc xe
đã đè chân cô làm bàn đà để hất tung thân người lên rồi nhanh chóng thả thật
mạnh đầu cô xuống lớp nan hoa bánh xe phía sau xe đạp, rồi kéo lê cô một đoạn
cho đến khi bàn chân mắc kẹt thì xe mới chịu dừng lại.
“Cứu! cứu với!”, cô khóc một cách sợ hãi và đau đớn, nhìn xung
quanh không thấy có ai, chỉ duy nhất người chủ chiếc xe cũng đang lúng túng
không biết phải làm gì.
-
“Làm
ơn tháo bánh xe để gỡ chân tôi ra”.
Cô vẫn tỉnh táo để ra hiệu cho người thanh
niên đó giúp mình, nhưng trong cốp xe anh ta không có đồ phụ tùng để tháo xe
máy. Cô nằm đó nhìn anh chàng bất lực, còn chân mình thì treo vắt vẻo trong
khung xe máy, và kìa máu đang chảy ra từ vết nhỏ xuống đường. Nguyên cả bàn
chân từ mắt cá trở xuống bị mắc kẹt trong đó còn đầu gối thì dính vào bô xe
đang xèo xèo rán miếng thịt dính vào nó, vừa đau vừa rát nhìn anh chàng đang
dùng tay để gỡ chân cô ra. Cô dùng hết sức hét lên:
-
“Anh
đi tìm người giúp đi, dùng tay không gỡ được đâu”.
Nói rồi cô bắt đầu thấy hoa mắt bên dòng máu vẫn
không ngừng chảy, chỗ ống chân thì bị cháy gần đến phần xương. Hu hu hu “Chúa
ơi cứu con với”.
Khoảng 30 phút sau có nhóm người chạy qua nhìn
thấy cô gái nằm chắn ngang đường đang bị tai nạn không người giúp. Trong bóng
lờ mờ của choáng váng, cô cảm giác có bàn tay nào đó nhấc bổng lên trong khi
bản thân chìm vào hôn mê của sự sợ hãi và lo lắng ngùn ngụt đang bám lấy cô.
Trước tình cảnh đó, Hòa - người thanh niên
không quen biết đã đưa cô vào bệnh viện, tiếng xe cứu thương vừa tới, các bác
sĩ liền chạy ra mang theo chiếc giường trải ga trắng đón bệnh nhân như thể một
người nhà thân thiết của cô, rồi nhanh chóng đẩy cô vào phòng cấp cứu. Chiếc
giường vừa đẩy vào phòng cấp cứu thì anh ra về với vẻ mặt hớn hở như vừa làm
một việc tốt giúp người. Ra đến cồng anh chợt nghĩ, một mình cô ấy ở lại không
người thân có sao không, nhưng mình đâu quen cô ấy, vả lại cô ấy cũng đã lớn dư
sức để lo cho bản thân. Nhưng mình là con trai đã giúp thì phải giúp cho trót,
thế rồi anh chạy thật nhanh lẻn vào phòng cấp cứu, nơi anh không được phép vào
ngoài bác sĩ. Trước mặt anh là một cô gái nằm cong queo thều thào trên chiếc
giường đã hóa thành màu đỏ từ lúc nào, cô đã tỉnh nhưng môi nhợt nhạt vì mất
nhiều máu, khuôn mặt loang những vết cặn của đất hòa với nước mắt hãy còn dính
lại và kìa máu vẫn còn rỉ ra nơi bàn chân đã giập gần hết. Nhìn cảnh tượng đó
anh thấy cảm thương rồi khi thấy bác sĩ từ trong phòng mổ đi ra, anh níu tay
bác sĩ và la lớn:
-
“Bác
sĩ ơi, cứu cô gái này, cô ấy sắp chết rồi”.
-
Ông
bác sĩ ngoắc mắt trong chớp nháy và nói: “Anh là bạn trai cô ấy hả, mau đóng
tiền đi tôi mới làm, không có thì cứ nằm đó”.
Tiền! cô ấy sẽ nằm đó cho đến chết nếu không
có tiền, mà mình cũng hết tiền. Nói rồi anh tức tốc chạy về nhà, nhanh chóng lo
làm thủ tục cho cô, tội nghiệp mu bàn chân trái đã giập hết phần thịt, bết thêm
những rãnh máu sền sệt hòa với bùn đất và nhớt xe chảy xuống, phần gót chân đã
phăng mất miếng thịt và dây gân gót chân cũng bị đứt đôi.
Lạy Chúa, con đau quá! Như Huyền lo sợ kêu
lên. Mẹ bảo con gái không được khóc, ý nghĩ đó cứ lởn vởn trong đầu làm cô thêm
gan dạ. Ngay sau đó cô thấy rùng mình vì một nhát tiêm của bác sĩ như thấu vào
tận xương, cảm giác tê buốt và đau nhói lan khắp người. Trong tư thế nằm sấp,
cô can đảm quay lại nhìn hai bác sĩ đang luồn những mũi kim vào vết thương để
khâu lại. Cảm giác đau không còn, vì thuốc tê đã ngấm làm bàn chân cô cứng lại
như khúc gỗ, mặc cho họ muốn làm gì thì làm.
Hơn nửa giờ sau cánh cửa phòng mổ được mở ra,
các bác sĩ bước đi trong sự vui vẻ của một ca nối gân thành công, bởi bệnh nhân
còn trẻ nên độ phục hồi cũng khá nhanh và khả quan hơn người già, theo sau là
một sự bối rối phủ khắp cơ thể của Như Huyền, cô lúng túng chưa biết phải làm
gì với tình trạng mới của mình. Ngồi trên chiếc giường đẩy nhưng mắt không ngừng
ngó khắp để kiếm người thân, sự tuyệt vọng chưa kịp đến thì Phi Hòa đã gõ cho
cô một cái ở vai như để trấn an bằng nụ cười và xua đi sự sợ hãi đang trực
chiếm lấy cô. Tức thì cô giật thót người quay lại và đáp bằng một giọng nhẹ đầy
khiêm tốn.
-
“Chào
chú, chú là người đã cứu tôi vào đây phải không ạ?”
Như cơn gió buồn chợt thoáng qua, Phi Hòa không
nói gì nhưng đưa cho cô miếng khăn ướt đã chuẩn bị trước và nói: em làm ơn lau
mặt lại cho sạch và nhìn anh kỹ kỹ một chút. Rồi anh khoanh tay nhảy lên ngồi ghế
đối diện không quên linh hoạt đưa đôi mắt sang Như Huyền đang bối rối nói
chuyện với người lạ mặt và hỏi tiếp.
-
“Em
tên là gì, mà đi đâu vào ban trưa vậy, em cho anh số điện thoại người thân đi,
anh gọi họ đến đây cho”.
-
“Em
tên là Như Huyền, em cám ơn anh nhiều lắm đã giúp đỡ em, mà cho em xin hỏi anh
tên là gì ạ”.
-
“Anh
tên là Phi Hòa đang trên đường đi làm cho công ty Supe Phốt phát Lâm Thao rồi
gặp em nằm giữa đường, anh xin nghỉ việc và đưa em vào đây”.
Đôi mắt anh nhìn về phía chân Như Huyền và tủm
tỉm nói bừa: “phen này em được trở về tuổi thơ rồi đó, chỉ ngồi trên giường
muốn gì là có người chăm cho nhỉ”.
Vừa ái ngại bởi câu nói và hành động tự nhiên
của một người mới quen đầy hào phóng, vừa ngại ngùng bởi lối xưng hô không quen
của mình nên cô ấp úng nói trong khi Phi Hòa đang quay mặt ra cửa sổ: “thật ra,
em là một nữ tu, anh cứ gọi em là dì cũng được”.
Vừa lúc đó cô thấy nơi chân một luồng gió tê
ngắt chạy lòng vòng trong khúc chân bị bó bột làm cho cô duỗi cũng không được
mà co càng không xong, có lẽ thuốc tê đã vội rút lui để cô tự do trong sự đau
đớn rát buốt và nhức nhối. Cô thật sự muốn khóc thật to vì đau quá nhưng cố kìm
nén trước mặt người khác. À mà mẹ mình không muốn con gái cứ hơi chút là khóc,
phải can đảm lên. Và rồi, đôi mắt đang đẫm ướt trực muốn trào ra bị khựng bởi đôi
môi đang nhếch lên gặng một nụ cười khi Phi Hòa đang nhìn và cười đáp lại với
cô. Chỉ bấy nhiêu cử chỉ đủ cho anh biết cô đang đau như thế nào, anh lấy thêm
chiếc gối cho cô kê chân với giọng kính cẩn: “Hồi còn nhỏ tôi cũng được học với
các sơ trong nhà thờ mà…Dì kê chân cao lên như vậy nhé, khỏi bị dồn máu!”
Những tia nắng còn sót lại của trời chiều bàng
bạc nằm ngang khung trời, chiếu thẳng vào căn phòng cô đang ngồi, những hơi
nóng hập lên của nền bê tông ngoài hiên tràn vào. Thừa lúc Phi Hòa ra ngoài, cô
tranh thủ hạ lưng nằm cho đỡ mệt, Như Huyền mong lúc này có mẹ ở bên để có thể thủ
thỉ và nói chuyện như hồi nhỏ, nhưng nếu mẹ biết con gái bị tai nạn chắc mẹ sẽ
lo lắng mà đổ bệnh nặng hơn, mà sao Dì Thanh lâu đến vậy, chắc dì đang bận
nhiều việc ở nhà thờ. Nghiêng mình nhìn qua cửa sổ cô thấy ở đây cũng có vườn
táo rộng mênh mông đang nhú những trái non nho nhỏ, cô nghĩ gia đình nhà táo
cũng bận rộn lắm, vì mẹ táo phải lo hút dinh dưỡng để chăm cho đàn con đang mơn
mởn tuổi non trong khung trời rộng lớn. Cô đang hứng thú với những suy tưởng
vẩn vơ thì Phi Hòa bước vào, cô vội chồm người ngồi dậy lóng ngóng định nhảy
xuống giường, quên đôi chân đang bị bó bột làm Phi Hòa bật cười nói: “tôi có ăn
thịt Dì đâu mà hoảng sợ vậy, tôi vừa ra ngoài gọi điện cho người thân của Dì, mà
sao Dì ra ngoài lại không mang điện thoại vậy! Thôi uống thuốc đi”.
Như Huyền đón ly nước từ tay Phi Hòa mà lòng
vẫn thắc mắc người đàn ông này là ai mà đối xử tốt với cô như vậy. Cả chiều nay
chỉ có hai người trong phòng làm cô bối rối, chẳng lẽ bảo anh ấy về đi một mình
cô lo được rồi. Còn anh thì chẳng đặt vấn đề về việc này, có lẽ với một cô gái khác
lạ làm cho anh nghỉ một buổi làm cũng không sao. Uống thuốc xong anh và cô cùng
nói chuyện, có lẽ thuốc giảm đau đã có công hiệu hay do mải nói chuyện mà cô
quên cơn đau của mình.
Những tia nắng mặt trời đã thu mình về trả lại
bầu trời màu ngâu xám đặc báo hiệu ngày sắp tàn, lúc này Dì Thanh và cha phó
cũng vừa tới, vừa thấy cô dì Thanh liền nói.
-
“Tội
nghiệp con quá, dì không thấy con về nên dì đi lễ luôn, khi về đến nhà thì nhận
được 30 cuộc gọi nhỡ kèm theo tin nhắn con bị tai nạn, dì lo quá nên gọi cả cha
Phong đi cùng”.
Như Huyền chào cha Phong và nắm tay dì Thanh
nói: “con bị nạn và được anh Phi Hòa giúp con vào viện, nếu không con không
biết phải làm sao dì ạ”.
-
“Tạ
ơn Chúa, vậy con ở đây nghỉ cho khỏe, dì sẽ gọi mợ con lên đây vài ngày với con
nhé. Rồi quay sang bên Phi Hòa. Dì cám ơn chú nhiều lắm, tiền viện phí hết bao
nhiều dì xin hoàn lại chú nhé”.
-
Phi
Hòa gạt tay dì nói: “không đáng là bao đâu dì ạ, nãy cháu có nghe dì Như Huyền
nói chuyện về việc làm bác ái, tuy cháu không hiểu đạo nghĩa là gì đâu nhưng
cháu cũng góp một ít thôi ạ”. Nói rồi anh chào ra về, vui vẻ vì một nghĩa cử cao
đẹp mà anh không ngờ mình lại tốt bụng như vậy.
Những ngày ở bệnh viện thật mệt mỏi với mớ âm
thanh hỗn độn, cả những lúc dì Thanh về cộng đoàn, cô cũng không cảm thấy bình
yên một chút nào, lúc này có muốn đi cũng không đi được, dù có đôi nạng ở đây
nhưng bác sĩ bảo hạn chế đi để vết thương mau lành. Suốt tuần nay ngày nào Phi
Hòa cũng ghé thăm bệnh nhân của anh một chút rồi mới đi làm. Anh làm bên khâu
quản lý nhân viên bốc hàng cho công ty nên bản thân anh cũng sở hữu cơ thể rắn
chắc và vạm vỡ, với sức nặng của công việc và cái nắng phong trần đã tạo cho
anh màu da sàm sạm và đôi tay thô ráp, khuôn mặt hình chữ điền nhưng phần râu
phong tỏa tự do để dành sự chăm chút cho những lụm tóc cắt tỉa nhiều lớp, lộ ra
cái trán rộng và bóng láng, nên dù anh chỉ hơn Như Huyền hai tuổi nhưng trông
như hơn cả một con giáp. Anh làm việc với mục đích để làm việc mà thôi, niềm
vui gia đình đã tắt ngúm kéo thú vui của tuổi ngọc đến sự vô nghĩa như cục đá
tan chảy trong hồ nước. Những người thân và bao ước mơ của anh cũng héo úa và
tan bay như làn khói của bếp chiều đồng quê, tâm hồn anh ngày càng chai lì với
những việc vô định. Hôm nay, anh đến sớm
hơn vì biết Như Huyền phải phẫu thuật lần hai, dây gân gót đang lành và có thể
tháo chỉ nhưng bó bột nhiều quá làm cho phần thịt bị hoại tử hết, theo chỉ định
của bác sĩ phải cắt bỏ phần thịt hư đó và không bó bột nữa để cho chân được
thoáng. Với anh, Như Huyền cũng chỉ là một cô gái bình thường như bao người
khác, nhưng không hiểu sao, chân anh cứ níu lại như thể anh đang cố gắng làm
tròn nhiệm vụ của một người bị liên lụy đến vụ tai nạn này.
Bệnh nhân vừa ra khỏi phòng Phi Hòa đã nhanh
nhẹn lách qua bác sĩ đến bên Như Huyền trước cả dì Thanh và tặng cô một nụ cười
tủm tỉm không ồn ào nhưng làm anh thấy thoải mái, giãn các cơ mặt như mảnh
ruộng trơ nắng vì nứt nẻ nay xì xào đón những mạch nước mát chảy về. Nhưng ngay
sau đó anh nép sau chiếc xe lăn nhường chỗ cho dì Thanh tiến vào hỏi thăm cô,
rồi mọi sự cũng an toàn anh tiếp tục đến công ty làm việc với nét mặt căng tròn
niềm vui và hào hứng của một con tim được tiếp thêm vị mặn mà, thay cho độ nhạt
tếch mà anh vẫn ướm nó trên mình bao ngày tháng dài tít tắp của sự phù vân. Anh
vẫn ngoái lại nhìn cho đến khi khúc quẹo của căn phòng cô đang ở bị chắn ngang
bởi ngôi nhà tầng sừng sững, nhưng không che khuất được hình ảnh mà anh thấy nơi
hai dì cháu, Dì Thanh cũng trẻ và Như Huyền cũng trẻ nên chắc họ yêu đời và
sống có ý nghĩa lắm. Anh nhìn thấy hồn sống lung linh trong mọi cử chỉ, lời nói
nơi hai người nữ tu này thật như hiện thân của Bồ tát, mỗi ngày anh thấy cô khá
hơn như sự sống vườn táo kia không ngừng nặng cân mỗi ngày để khoe cơ thể tròn
trịa xanh mướt của mình.
Theo sự chỉ định của bác sĩ là nên đem vết
thương ra tắm những ánh nắng non của buổi sáng để vết thương mau lành, vì thế
đây cũng là lúc hai dì cháu tận hưởng những làn gió mát trong lành nhất. Khi
mặt trời đã lên cao cũng là lúc những tia nắng chiếu xuống mặt đường khiến cho
không gian trở nên sáng chói, càng già về trưa ánh nắng càng gay gắt hơn bởi sự
chói chang của nó. Độ sáng cực mạnh của ánh nắng làm cho mắt cô nhòe nhòe khi
mãi nhìn một bóng hình quen thuộc đang lững thững từng bước tiến vào khu ngoại
của bệnh viện. “Oa, dì Thanh ơi, mợ
Nhung của con đến kìa!” Rồi quên cả sự mệt mỏi của đường dài, mợ xót xa khi
thấy cháu bị què một chân và nhanh miệng hỏi. “Chân cháu có khả năng lành được
không? hay bị cà thọt suốt đời? vậy nghỉ tu về ở với mẹ đi cháu ạ!”
Câu hỏi bâng quơ của mợ làm dì Thanh giật bắn
người: “ấy ấy, lành chứ, cháu sẽ lành mà, không khuyên cháu cố gắng tu thì chớ
lại bảo nó về”. Dì Thanh đáp lại với vẻ mặt không vui.
Vừa nhắc đến mẹ Như Huyền vội hỏi mợ: “mẹ cháu
có khỏe không mợ?”
Không đợi uống hết ly nước dì Thanh đưa, mợ
Nhung nói tiếp: “đúng là nó chỉ nhớ mẹ thôi, mợ nó lặn lội từ dưới xuôi lên đây
chưa được lời hỏi thăm. Mẹ cháu nay ốm mai đau, hôm nay cháu không bị tai nạn
thì mợ cũng lôi cháu về rồi đó, tu cũng chẳng hơn ai ngoài đời nhưng lại sướng
hơn người đời gấp bội cả về tiền bạc, sự kính trọng và tình thương nữa”. Mợ
Nhung lại giỏ lấy lá thư của mẹ Huyền và trao cho cô, còn mợ thì bước ra cửa
phòng vừa vươn vai vừa quyết : “mợ chỉ ở với cháu đêm nay thôi, sáng mai mợ về
sớm còn gà qué lợn bò và chồng con nữa”.
Trong mớ âm thanh hỗn độn của bệnh viện, nào
là tiếng xe cứu thương, tiếng người khóc nhưng Như Huyền vẫn nghe thấy tiếng xe
máy quen thuộc đến gần được một lúc lại phóng vụt đi mất. Tối đến cô tranh thủ
mở lá thư của mẹ ra đọc “ Con gái yêu quý của mẹ, mẹ đã khấn dâng con làm của
lễ cho Chúa rồi, con cố gắng tập tu cho tốt nhé, ở nhà mẹ vẫn khỏe, có vợ chồng
mợ Nhung vẫn chăm sóc cho mẹ tốt lắm, con không phải lo đâu mà nếu bận việc nhà
Chúa thì con cũng không phải về thăm mẹ. Mẹ không ngạc nhiên lắm khi nghe thấy
con bị tai nạn bởi đó là thánh giá Chúa gửi đến, con đừng than van mà làm buồn
lòng Ngài. Can đảm lên, hỡi con gái!”. Ôi lạy Chúa, mẹ vẫn khuyên con cố gắng
tu nhưng mợ Nhung cứ bảo con về là sao Chúa nhỉ! Dù sao, con cũng đã khấn tạm rồi,
tức là con nắm chắc phần thắng trong tay, con sẽ ở lại mãi nơi này, con không
về trần gian đâu Chúa ạ.
Một tháng đã trôi qua, các y tá thay nhau vào
rửa vết thương và thay gạc cách cẩn thận làm vết thương không thể nhiễm trùng lại
được. Cô được đổi sang căn phòng khá hơn vì bác sĩ trưởng phòng là bà con họ
hàng với ông trùm giáo xứ, vì thế cô được đón nhận sự ưu ái của các bác sĩ và
tình thương dạt dào từ các em thiếu nhi cũng như các hội đoàn thay nhau đến thăm
hỏi. Nơi đây cô không còn thấy vườn táo nữa nhưng thay vào đó là làn gió thoang
thoảng thổi lên từ dòng sông Đà trong vắt, nơi từng mang nhiều vết tích về sự
thần kỳ của thiên nhiên. Đến nay vết thương của cô đã lành, nhưng gân gót còn
yếu lắm, cô tập đi lại bằng đôi nạng quanh sân, một ý tưởng chợt đến là cô muốn
thăm dò nhìn lại những quả táo không được ánh nhìn của mình chăm sóc nay đã lớn
như thế nào, thì kìa Phi Hòa cũng vừa tới và nói: “Dì đứng yên đó để tôi dẫn đi”.
Treo vội nón bảo hiểm lên tay lái, anh chạy ùa
lại bên Như Huyền và nhắc: “lần sau không có người thì Dì không nên tự do ra
ngoài, nhỡ ngã thì không có người đỡ dậy đâu”. Như Huyền trả lời: “à Dì tập đi
một chút thôi, vết thương cũng đã khá rồi, vả lại ở đây cũng có nhiều người”.
Phi Hòa cắt ngang
-
“Tôi
thử đẩy Dì ngã xuống đây xem có ai đến giúp không nhé”.
-
“Đương
nhiên rất khó vì anh cố tình, ngoảnh đi nhìn lại chắc cũng sẽ có Phi Hòa đến
giúp thôi”. Nói rồi cả hai cùng vào trong nhà.
Như ngồi phải chỗ có kiến, Phi Hòa đứng lên
lại ngồi xuống và ra sức vò đôi tay nhưng Như Huyền không nhìn thấy những cử
chỉ ấy, cuối cùng anh gạn hỏi:
-
“Thưa
Dì, mẹ Dì đang ốm nặng phải không?”
-
“Vâng.
Mẹ Dì bị viêm động mạch chủ, nhiều khi máu không lưu thông được làm cho mẹ bị
choáng và ngã”.
-
“Bệnh
đó chữa được mà, thế sao mẹ không ở với bố mà lại ở với cậu mợ”.
Như một đám mây đen lãng đãng bay qua khơi lại
vết xước vẩn đen gia đình làm Như Huyền khựng lại, cô quay mặt về phía sông và
không giấu diếm.
-
“Dì không
có bố!”
Biết chạm vào điều tế nhị, anh không hỏi thêm
nữa nhưng cũng không ái ngại hoàn cảnh của mình nên nói luôn. “Dì không có bố,
còn tôi thì không có mẹ, từ lúc có trí khôn tôi chưa một lần nhìn thấy mặt mẹ
và càng không được mẹ chăm sóc bằng tình yêu mẫu tử như Dì. Còn bố của tôi thì
nay đây mai đó, ông hiền lành và làm ăn giỏi lắm, nhưng một lần kia ông bị ai
đó lấy mũ cối đánh liên tiếp lên đầu làm cho ông nhiều lúc không làm chủ được
mình. Dì hạnh phúc hơn tôi vì được nhiều người thương, còn tôi cô đơn từng ngày,
sống chỉ để sống mà thôi”.
-
“Vậy
anh và dì giống nhau quá”. Như Huyền đáp lại bằng giọng nhỏ nhẻ như đồng cảm
với Phi Hòa.
Thôi mình đổi chuyện khác đi. Phi Hòa đề nghị
và nhìn xuống phía chân của Như Huyền, nơi cô đang gãi ngứa vì da non: “dì gãi
nhẹ thôi kẻo làm xấu da đó”.
Như Huyền phì cười nói: “đẹp với xấu gì nữa
anh, chân dì có cả vết xẹo to rồi, mà đã đi tu cũng không cần thiết lắm”.
Phi Hòa ra vẻ ngạc nhiên không hiểu hỏi lại: “đi
tu thì cũng mặc váy chứ, có đeo tất cũng không che được. À mà nói đến sẹo, tôi
cũng có nè, hồi nhỏ tôi bị bỏng nên giờ vẫn để lại đó”, rồi anh kéo ống quần
cho cô xem và nói tiếp: “cả trên mông nữa, tôi bị bỏng từ trên mông xuống chân”.
-
“Rồi
rồi”. Như Huyền ra hiệu bỏ quần xuống và hiểu câu chuyện, cô tiếp tục giải
thích cho anh hiểu về đời tu mà cô đang bước theo.
Phi Hòa chẳng hiểu mấy nhưng vẫn chăm chú nghe
xem như đã hiểu tường tận câu chuyện cô kể. Nhìn bầu trời tây, những tia nắng
chói chang đang lịm dần, những đám mây lẻ tẻ xen vào giữa tia nắng còn lại như
các cánh quạt xòe rộng mờ nhạt đi xuống núi. Xa xa một vùng núi được bao hợp
bởi màu đỏ ối hùng vĩ, phủ khắp xuống chân đồi, vươn dài đến cả dòng sông Đà
đang chảy siết, nhờ đó mặt sông cũng đỏ rực, lung linh nhờ ráng chiều rải xuống.
Câu chuyện như còn dùng dằng, bịn rịn chưa muốn dứt, nhưng Phi Hòa phải đi vì
đến giờ làm ca đêm, tiếng xe máy vừa phóng đi thì ông mặt trời cũng an phận
trốn sau hốc núi để nghỉ ngơi.
Chương 2. Sự êm dịu của nấc thang đi xuống
Sáng hôm ấy, trong ánh nắng còn ướt của những
ngày cuối mùa thu, đám trẻ con trong xóm đã tung tăng ra đón dì Thanh và dì
Huyền từ bệnh viện về, vừa thấy dì Huyền xuống xe, chúng đã reo lên: dì Huyền hết
đau chân rồi chúng mày ơi, dì đi được rồi kìa, và đứa nào cũng tíu tít dành
phần hỏi trước:
-
“Dì
ơi, dì còn đau nữa không?”
-
“Dì
có dạy giáo lý chúng con nữa không?”
-
“Dì
không phải đi nạng nữa à?”
Một đứa khác vừa chạy đến bám vào tay dì Huyền
và vui vẻ nũng nịu: “Dì ơi cây nhãn bên nhà thờ chín hết rồi, dì trèo lên bẻ
cho chúng con ăn đi….”
-
“Chân
dì còn chưa khỏi hẳn sao bắt dì trèo cây, mấy đứa này”. Ông trùm nạt mấy đứa
trẻ còn đang bám lấy hai dì, và ra hiệu cho chúng về bớt để dì nghỉ ngơi.
“Ừ ừ để mai dì hái cho”. Huyền không biết phải
trả lời câu nào trước. Nhìn đám trẻ con reo mừng sung sướng vì được các dì
chiều theo ý chúng, cô thấy mến lũ trẻ và thương chúng lắm, những gì các cha,
các dì dạy mong chúng ghi nhớ và sau này không bị sa vào những tệ nạn xã hội.
Cô thấy Chúa ưu ái quá khi được sống nơi xứ đạo thân thương này, bởi cô đã nhận
được rất nhiều hồng ân từ nơi Chúa.
Trở về với màn đêm tĩnh lặng của trời đông
đang lờ mờ nhả xuống những hạt sương li ti, kéo theo những cơn gió se lạnh ùa
thẳng vào những rặng cây đang rùng mình chịu trận một cách miễn cưỡng. Dì Thanh
xoa xoa đôi tay đang trở lạnh bởi những cơn gió mùa đông bắc thổi về, nhưng
miệng tủm tỉm với kế hoạch nho nhỏ của mình rồi đem ra khoe với Như Huyền.
-
“Hôm
nay dì mới khai giảng lớp giáo lý dự tòng đó con, lớp vừa tròn mười người,
nhưng không người nào bản xứ cả, dì hy vọng đến lễ Phục sinh này cả mười người
đều lãnh bí tích rửa tội”.
-
“Vậy
năm nay hy vọng cánh đồng sẽ bội thu hơn năm ngoái dì nhỉ”. Như Huyền đáp.
Rồi như chợt nhớ ra điều gì, dì Thanh nói
tiếp: “à trong lớp có cả Phi Hòa nữa đó, hình như chú ấy đã được học giáo lý ở
đâu rồi thì phải, vì dì hỏi mấy câu đơn giản chú ấy đều biết, nhưng luôn khẳng
định mình chưa được rửa tội. À mà chú ấy cũng có hỏi thăm về chân của con có
biến chứng gì trong những ngày gió mùa không”.
Như Huyền như thắp được tia hy vọng mới trong
những lời nguyện của mình, rằng một ngày gần nhất mọi người sẽ trở về đạo Công
giáo, cùng là anh chị em một cha chung trên trời. Nơi mảnh đất màu mỡ này cũng
có con người tốt như Phi Hòa đang dần dà theo đạo, thì chắc chắn sẽ còn nhiều
người muốn theo Chúa lắm nhưng chưa có cơ hội được nghe Lời của Ngài, điều này
đỏi hỏi cô cần dấn thân hơn nữa để góp một phần nhỏ vào việc mở mang nước Chúa.
Hôm nay, một cảnh tượng lại diễn ra như mấy
tháng trước. Phi Hòa cưỡi xe máy kiên trì lẽo đẽo một cách âm thầm sau cô gái
đang đi xe đạp đến tận cuối cầu Trung Hà mới phóng ngang sát cô gái và ngỏ lời:
“chào dì Như Huyền!”
Tiếng còi xe và giọng nói quen thuộc làm cô
đứng lại. Dưới gốc cây hoa sữa của con đường tắt ngang, Phi Hòa vui vẻ lắm bởi
gặp lại cô mạnh khỏe liền hỏi: “trời lạnh như vậy có làm dì đau chân trở lại
không”?
Như Huyền nhã nhặn đáp lại: “cám ơn anh nhiều,
chân của dì không ảnh hưởng đến xương nên bây giờ dì có thể chạy đi tới đâu dì muốn”.
Rồi không quên chạy tại chỗ như để chứng minh sự khỏe mạnh của chân và xua đi
cái lạnh đang ùa từ dưới sông trực chiếm con người không mấy khỏe mạnh của cô.
Quay sang nhìn Như Huyền anh thấy môi cô đang thâm lại và run lên vì lạnh, rồi
thật nhanh anh chộp lấy bàn tay cũng đang buốt ngắt và gần như tê cứng cùng thả
giọng trách móc: “con gái ra đường sao không đeo bao tay vào”. Như Huyền luống
cuống vội rụt tay lại nhưng lần nữa Phi Hòa lại siết chặt hai tay cô và nói:
“Tôi có
ăn thịt dì đâu mà sợ. Bị cái lạnh và sự quan tâm nho nhỏ của anh, Như Huyền như
van xin:
“Vâng,
nhưng không nên làm như vậy ạ”. Một cánh tay đã nới ra, cô như muốn cám ơn anh
rồi chào về, Phi Hòa im lặng không nói, một lúc sau anh quay ngang nhìn mặt cô
lần nữa và nói:
-
“Vậy
dì về nhé, nhưng trời lạnh như vậy dì phải giữ gìn sức khỏe đó. À tôi có cái
này cho dì nè”. Phi Hòa rút ra chiếc Nokia trao cho Như Huyền và nói: Lần trước
tôi nghe dì nói không có điện thoại, phải dùng chung với dì Thanh, nay tôi mua
cho dì cái này để tiện liên lạc hỏi thăm dì.
Như Huyền vội xua tay: “Dì không cần điện
thoại đâu, không phải dì không mua được nó, mà chưa được phép dùng, có gì anh
cứ gọi vào số máy của dì Thanh là được”.
Phi Hòa không chịu, dúi điện thoại vào tay cô
và nói: “buồn cười, đâu phải chuyện gì cũng gọi qua dì Thanh được”. Anh chưa
nói hết câu thì cô đã cắt ngang đề tài và xin tháo lui rồi nhanh chóng trèo lên
xe đạp để phóng đi. Phi Hòa bị từ chối, anh không nói lời nào nhưng vẫn dõi
theo sau bảo vệ cho đến khi cô về đến nhà mới quay trở lại nơi làm việc.
Mấy hôm nay, ngày nào Như Huyền cũng đến nhà
thờ sớm hơn, trước giờ lễ mỗi tối, cô ngồi lần hạt và nghe cha Hào chia sẻ về
kinh nghiệm truyền giáo đầy sóng gió nhưng hạnh phúc khi biết kết hợp liên lỉ
với Chúa. Nhìn bộ áo chùng thâm đen đã bạc thếch gần đồng màu với tóc trên đầu
của cha già đáng kính, cô thật ngưỡng mộ một con người thánh thiện đã đi một
hành trình dài phiêu lưu trên con đường tận hiến cho Chúa. Cha bảo con đường
càng trắc trở sóng gió càng thấy niềm vui đổ về nơi đó, bởi linh đạo Kitô giáo
không phải là đi trên mặt nước mùa thu êm ả, đến con chim lướt qua cũng chỉ để
lại vài vệt lăn tăn, rồi vội vàng trả lại khoảng lặng bình yên, mà là đi trên
những thác ghềnh nhấp nhô không biết trước, nhưng luôn có Chúa ở đó để cùng ta
nghiệm ra ý nghĩa ấy. Đang say sưa nghe cha Hào kể chuyện, bỗng tiếng nói quen
thuộc làm Như Huyền trở lại với thực tại, cô rất ngạc nhiên khi thấy trước mặt
mình là Phi Hòa. Bấy giờ anh mở miệng nói: “con chào cha, chào dì Huyền, sao
nhìn dì sững sờ ra vậy!”
À à, Huyền lắp bắp, rồi nhanh chóng quay sang
giới thiệu với cha: “thưa cha đây là anh Phi Hòa, ân nhân cứu mạng con trong vụ
tại nạn ở cầu Trung Hà, và bây giờ đang là học trò của dì Thanh trong lớp dự
tòng đó cha”.
Cha Hào với vẻ mặt trìu mến và nói: “thân chào
con, cha chúc mừng con trước nhé, vì không bao lâu nữa con sẽ trở nên Kitô hữu
như cha và dì Huyền đây, bây giờ con đi lễ chứ”.
Phi Hòa khiêm tốn cúi chào đáp lễ và nói trong
sự vui mừng: “vâng ạ, dì Thanh bảo con ngày nào xếp giờ được thì cố gắng đi dự
thánh lễ”. Trong suốt thánh lễ Phi Hòa hết nhìn cha lại quay sang nhìn Như
Huyền và bà con đông đảo giáo dân. Anh chẳng thể hiểu ý nghĩa sâu xa của thánh
lễ là gì, nhưng anh nhìn thấy nơi nét mặt của cha sáng lên vẻ thanh khiết, tay
cha dơ cao uy nghi khi dơ cao cái bánh tròn màu trắng, không còn thấy đâu vẻ lụ
khụ lúc trước giờ lễ. Và kìa Như Huyền cũng đang chăm chú dự lễ một cách thành
kính nghiêm trang, tất cả nhà thờ toát lên vẻ thánh thiêng, ấm cúng, anh thấy
bình an khi mọi người cùng quay sang để chúc cho nhau, và anh cũng được hưởng
sự bình an ấy. Anh đặt ra nhiều câu hỏi mà không lời giải đáp, nhưng anh biết
Như Huyền sẽ giải thích cho anh hiểu tưởng tận mọi chi tiết trong thánh lễ.
Đứng đợi sẵn dưới gốc cây Xà cừ, anh ngóng Như
Huyền ra. Trong khi đợi dì Thanh gặp cha xứ có chút việc, cô cũng nán lại một
chút nói chuyện với Phi Hòa, cùng khi đó, mọi người đang tản đi viếng các đền
đài xung quanh nhà thờ hay tụm lại gốc cây nào đó để gặp gỡ công việc riêng của
họ. Với ánh điện chiếu ngang, Như Huyền thoáng thấy đôi mắt của Phi Hòa như lõm
sâu với quầng thâm hằn in rõ rệt chắc do thiếu ngủ, nghe anh nói phải lo kiếm
tiền để chữa bệnh cho bố, cô cũng thấy chùng lòng bởi giống hoàn cảnh của mình
quá, nhưng cô không phải lo kiếm tiền như anh. Hôm nay anh làm cả ngày nhưng
vẫn dành thời gian đi lễ làm cô mừng lắm.
Vừa nói chuyện được một chút đã vắng người
trong sân, bởi trời lạnh làm họ cũng nhanh chân về nhà. Lớp sương như phủ dày
nhiều hơn làm khoảng sân chỗ không có bóng cây đã ướt đẫm. Như Huyền giục anh
đi về kẻo trời lạnh vì cô biết hai người không nên nói chuyện lúc này, nhất là trời
đã về khuya. Ý thức điều đó, cô nhẹ nhàng rút lui và chào tạm biệt Phi Hòa để
ra về cùng với dì Thanh.
Liền ba tuần sau đó, ngày nào Phi Hòa cũng đi
dự lễ, anh hòa đồng và vui vẻ nên được nhiều người quý mến, và nhất là biết anh
chuẩn bị theo đạo.
Hôm nay Như Huyền cũng đi sớm nhưng không thấy
Phi Hòa đâu, đến giờ lễ, rồi cả đến khi quay sang chúc bình an, Như Huyền cũng
không thấy anh đâu. Chỗ quen thuộc anh ngồi là một người khác, rồi cô nghĩ chắc
anh chuyển làm ca đêm và cầu xin Chúa cho anh được mạnh khỏe để làm việc. Giờ
lễ vừa chấm dứt, cô ra ngoài trước dì Thanh, vừa lúc đó có người đưa đến cho cô
hộp quà nho nhỏ với lời nhắn: Người thân gửi.
Chẳng biết của ai, cô cất hộp quà, rồi viếng
đền các thánh để đợi dì Thanh ra về cùng. Trời mỗi lúc lại lạnh hơn, từng cơn
gió cứ ùa vào nhà mà không thèm xin phép, những ô cửa nho nhỏ hiếu khách mời đầy
gió vào chơi đêm, nhìn qua khung cửa kính. Như Huyền thấy phòng dì Thanh đã tắt
điện đi ngủ, còn lại những lá mít, lá xà cừ đang nặng nề buông mình xuống mặt
đất, sương trời phả vào ô cửa kính lòe nhòe làm cô không thấy rõ mọi vật bên
ngoài nữa. Đọc xong kinh phó dâng, cô buông mình đi ngủ, rồi chợt nhớ ra món quà
lúc nãy cô thốt lên: “Ôi lạy Chúa, sao lại là chiếc Nokia, con đã không lấy sao
anh ấy lại gửi đến đây?”. Thận trọng mở ra, cô thấy hàng tin nhắn gửi đến: “Thưa
Dì, tôi phải đi công tác xa một thời gian, không thể cùng Dì đi lễ hàng ngày, Dì
cứ dùng điện thoại này đi, để tôi biết được tình trạng sức khỏe của Dì trong
thời gian tôi đi vắng nhé, cuối cùng chúc Dì ngủ ngon”. Như Huyền cũng nhắn
lại: Dì cám ơn và cũng chúc anh ngủ ngon, rồi liệng điện thoại vào góc tủ quần
áo, đánh một giấc ngủ no say trong Chúa.
Đại lễ mừng Chúa Giáng Sinh đã đến, những hang
đá lớn nhỏ được thắp đầy đèn hoa nhấp nháy làm sáng rực cả một không gian, những
giáo dân sùng đạo không ngớt những dâng những câu kinh lời hát hướng về Giêsu
Hài Đồng. Hai dì Thanh và Huyền cũng bận rộn với những chương trình hoạt cảnh
và tập hát cho thánh lễ được long trọng sốt sắng. Dân chúng nghỉ việc xác mừng
lễ và tổ chức dạ hội kéo dài đến cả tuần sau đó, làm cho các cha và các dì cũng
thấm mệt nhưng lòng tràn niềm vui. Tối nay Như Huyền về hơi trễ, đôi chân mỏi
mệt chậm rãi cố nhẩn nha về đến nhà, lúc này cô mới thấy gió lạnh tràn vào từng
đốt xương như muốn lôi cô mau chân vùi vào chiếc chăn ấm. Giật mình, cô nghe
như có tiếng reo điện thoại nho nhỏ đang nằm khóc trong góc tủ. Nhận được tín
hiệu, người bên kia liền cất tiếng trước: “Alo, Như Huyền à, Dì có khỏe không?”
-
“Dì khỏe,
còn anh?”. Như Huyền đáp
-
Phi
Hòa thở phào một cái rồi nói tiếp: “Dì khỏe là tôi mừng rồi, chứ nếu Dì mà ốm
thì ….anh thương lắm”…
Như Huyền im lặng không biết nói sao thì Phi
Hòa tiếp bằng giọng trách nhẹ: “sao em không chịu dùng điện thoại vậy, ngày nào
anh cũng chờ em trong im lặng, anh chỉ sợ em có chuyện gì”.
-
“Dì…Dì,
chỉ là không quen dùng nên cũng không nhớ đến nó mà thôi”.
Phi Hòa hỏi dồn tiếp: “em quên dùng điện thoại
nên cũng quên anh luôn sao?”
-
Như
Huyền phân trần thật nhanh: “không có đâu, ngày nào Dì quay sang chỗ anh ngồi dâng
lễ, dì đều cầu cho anh”.
-
Được
đà Phi Hòa tiếp: “thật không, em nhớ anh vậy à, anh cũng nhớ em lắm, anh muốn
phóng xe về ngay giờ này để gặp em”.
-
Như
Huyền vội cắt ngang: “không được đâu anh, giờ này đi đường nguy hiểm lắm, khi
nào anh công tác xong thì về đây đi lễ cũng được mà”.
-
“Không,
anh muốn gặp em ngay giờ này cơ”, Phi Hòa minh chứng bằng giọng quả quyết, rồi
chậm rãi nhấn mạnh. “Em ra đây anh gặp chút được không, anh đang đứng ở gốc cây
xà cừ bên trái đền Đức Mẹ đó”.
-
“Nhưng
Dì đã đi ngủ rồi, trời lại đang về khuya nữa, Dì không ra đâu!”. Như Huyền đáp
lại.
-
“Nếu
em không ra anh sẽ đứng đây chờ em suốt đêm cho đến sáng”. Phi Hòa đáp lại bằng
giọng khẩn thiết và năn nỉ: “em ra nhé, anh chờ!”
Rón rén bước chân, Như Huyền nhẹ nhàng sải dài
bước qua lối tắt vào nhà xứ, những cành lá ướt đẫm sương quệt vào mặt làm cô
rùng mình, rồi thu hết cam đảm tiến ra phía đền Đức Mẹ. Giữa luồng sáng yếu ớt
chiếu từ đường vào không đủ để Như Huyền nhìn thấy mặt Phi Hòa, nhưng hơi thở
của anh phả ra hòa vào vệt sáng cùng với làn gió đưa đẩy như làn khói ấm lung
linh mờ ảo làm Như Huyền thích thú. Nắm chặt tay Như Huyền, anh như muốn truyền
hơi ấm hòng đẩy xa cái lạnh tê buốt đang xà vào cô, thật nhẹ nhàng, Phi Hòa
kính cẩn trao vào đôi tay đang ấm dần lên của Như Huyền một cái thơm thân tình.
Trong phút tĩnh mặc của trời đông, từng đợt gió không e ngại thổi về làm cho
Phi Hòa muốn vùi lấp sự cô đơn của cõi lòng như làn khói của băng giá đang uốn
éo xâm nhập vào người anh. Lập tức anh kéo cô sát gần người hơn, đang lúc tay
anh đưa qua vai để tiến lại gần thì Như Huyền cũng bắn người ngồi thụt xuống
chống lại phản ứng vừa rồi của anh. Cảm giác bị chững khi vơ một nắm không khí
làm anh hụt hẫng, rồi nhanh nhẹn đáp bến xuống bờ vai cũng đang run lạnh của
cô. Trong sắc nhạt của ánh sáng, cô thấy anh đang nhìn thật âu yếm và không
quên dấy lên giọng nhẹ nhàng bên tai cô: “em, Như Huyền à”. Nhẹ như gió thoảng,
anh kéo cô áp gần vào thân cường tráng của mình. Dựa mình trong vòng tay của
Phi Hòa, Như Huyền nhắm mắt đặt cằm lên bờ vai vững chãi của anh để cảm nhận hơi
ấm và nghe tiếng gió xào xạc lướt qua từng lá kép hình lông chim của họ xà cừ,
đập qua thân cây màu xám nâu rồi bung trong không khí, làm cho âm thanh lúc này
thật rộn ràng như bài hát có âm điệu rõ ràng mà thiên nhiên đã thay phiên nhau
dệt nên để cho con người thưởng thức. Sau một đợt gió, Như Huyền mở mắt ra thì
bất thần, xa xa một bóng chùng thâm lọm khọm lướt qua rồi nhanh chóng lùi vào
trong góc khuất của bóng đêm. Một cảm giác lạnh toát chạy khắp sương sườn, cô
dùng mình bỏ chạy thật nhanh về phía cộng đoàn. Bên cạnh đền Đức Mẹ, người đàn
ông vẫn đứng nhìn cho đến khi không còn thấy bóng dáng cô. Trên trời, gió vẫn
theo quy luật tự nhiên đẩy xuống những luồng gió lạnh cắt da, lúc này Phi Hòa
cảm thấy sự lạnh lẽo đang hiển hiện nơi thực tại, anh đưa tay ôm luồng không
khí như để chia sẻ nỗi quạnh hiu trong đêm đông giá buốt này.
Chương 3. Dai dẳng và dứt khoát
Sắc xuân bắt đầu giao động cựa mình trên những
chồi non hoa anh đào đang ngơ ngác vươn mình dấn thân vào vũ trụ theo quy luật
tự nhiên, thân mặt và vai còn khoác trên mình những bộ lông tơ mịn màng cuốn
theo lớp sương mỏng mượt mà tạo nên vẻ kiều diễm. Mọi cây cối như đang trang
điểm cho mình những bộ áo mới kỳ diệu, làm cho bầu trời thêm lộng lẫy và căng
đầy sức sống tươi tràn. Như Huyền được phép về gia đình trong những ngày mẹ đau
nặng, vì thế cô tận hưởng từng giây phút để cùng mẹ hít thật no sự thanh khiết
của gió, mùi thơm từ các loài hoa và ngắm nhìn từng đàn én chao đảo uốn lượn
trên bầu trời, phơi mình cùng thả hồn trong chút sương nhạt của bình minh và
ánh nắng hiền hòa ấm áp của tiết trời qua hiên cửa nho nhỏ. Áp vào mặt mẹ, cô
thấy ấm lòng biết bao, tình yêu của mẹ dành cho cô con gái nhỏ thật không sao
diễn tả nổi. Ánh mắt và nụ cười rạng rỡ của mẹ dù có khá hơn tiết đông vừa qua
nhưng cũng không che giấu được sự nhợt nhạt do lượng hồng cầu ngày một thoái
đi. Lập tức cô vòng tay ôm chặt mẹ thật lâu vì cô sợ mẹ có thể ra đi vĩnh viễn,
thế rồi nước mắt cô trào ra vì thương mẹ, hình ảnh hai mẹ con xuôi ngược đó đây
để kiếm miếng cơm manh áo làm cô không thể nào quên. Thanh Trầm – mẹ cô cũng ứa
những giọt lệ trên khóe mắt đang trực trào ra và muốn tuôn ra hết để vơi đi nỗi
lòng bà đang day dứt bấy lâu nay. Bà lấy tay dụi cho khô, cố nén để nước mắt
không chảy ra và nói nhẹ với Như Huyền.
-
“Con
à, mẹ có chuyện này muốn cho con biết”.
-
“Chuyện
gì hả mẹ?” Cô nhìn mẹ đăm chiêu rồi nghiêng mình hỏi .
-
“Chuyện
của bố và mẹ con”. Bà mẹ trả lời.
Như Huyền ngạc nhiên mắt cô tròn xoe nhìn mẹ
như có điều gì đó bí mật lắm, cô nghĩ còn điều gì mà mẹ không cho cô biết đâu.
Thở dốc một lát, Thanh Trầm mới bắt đầu lấy
lại sức để nói tiếp: “Con à, thật ra con không phải là con hoang như mợ Nhung
và mọi người vẫn nói đâu. Bố và mẹ đã đăng ký kết hôn và làm lễ cưới tại nhà
thờ Hoàng Xá sau khi sinh được một đứa con trai, ngày rửa tội cho nó thì cũng
là ngày bố mẹ lãnh bí tích hôn nhân, nhưng ở trong phòng áo thôi”. Vừa nói chị
vừa rung lên từng cơn nấc như muốn ngăn cản chị đừng nói, nhưng lòng chị lúc
này đang khao khát một sự giải tỏa phá tan những khối u tâm hồn đang trú tạm bấy
lâu nay nơi thâm tâm chị, uống một ngụm nước ấm, chị kể tiếp. “Con biết không,
chỉ vì một sự hiểu lầm mà bố mà mẹ đã ly thân rồi không ai chịu tha thứ cho
nhau, mẹ đã đuổi bố của con đi, mẹ tưởng hình ảnh của mẹ như tình yêu đã đượm
vị mặn nồng trong trái tim bố còn dư tràn hơn cái tự ái đang trú ẩn nơi cốt tủy
đàn ông của ông. Nhưng không ngờ, ván bài mẹ lật ngược để thử thách tình yêu
của ông ấy đã làm mẹ tuột tay mất vĩnh viễn. Ông ấy đã ra đi và ôm theo đứa con
trai không một lời từ biệt và cũng không để lại vết tích gì. Lúc này mẹ mới hối
hả đi tìm nhưng đều vô ích, trong khi tinh thần đang trĩu nặng vì mất đi tình
yêu ông ấy cùng với những lời gièm pha của dân làng thì mẹ phát hiện mình đang
trong thai kỳ tháng thứ hai, không chịu được lời nhục mạ của bà con, mẹ cũng bỏ
quê hương đến một nơi kín đáo để sinh con”.
Quay sang khung cửa sổ, nơi những nhành hoa
đào màu hồng đậm đang vui cười cùng ánh nắng ban mai và tỏa ra một mùi hương
dìu dịu. Hít thật sâu cho căng đầy buồng phổi, bà tự tin chuyển sang nét mặt
vui tươi và hào hứng kể tiếp. “Cùng sở hữu khuôn mặt chữ điền giống bố, nhưng
anh trai con dễ thương lắm, khuôn mặt mũm mĩm cùng với tiếng cười lúc nào cũng
khanh khách của nó rất lôi cuốn mọi người, nên dù nó được mệnh danh là siêu
quậy nhưng vẫn được cưng chiều. À có lần nó còn nghịch cả ấm nước mới sôi, rồi
bị bỏng từ trên mông xuống chân”. Như Huyền trố mắt ngạc nhiên, vì tai nạn này
giống hệt câu chuyện mà Phi Hòa đã kể, nhưng cô im lặng để mẹ nói tiếp.
“Nhưng tiếc thay…” vẻ hào hứng của bà lặng dần
theo đôi tay rã rời thả thõng xuống mặt giường, bà buồn rầu nói tiếp: “nó đã đi
xa mẹ vĩnh viễn, mẹ không còn nhìn thấy nó đã lớn như thế nào”. Rồi nhìn sang
Như Huyền, thêm lần nữa bà cương quyết: “mẹ vẫn nhớ hình ảnh của nó lắm, bây
giờ dù nó có lớn như thế nào, hay biến dạng như ra sao chăng nữa mẹ cũng vẫn
nhận ra”.
Nói đến đây bà sụt sùi trong tiếc nuối rồi lay
mạnh người Như Huyền trong chút ít sinh lực đang bị bào mòn bởi sự mòn mỏi và
day dứt rồi nói: “Mẹ có lỗi rất nhiều với bố và anh trai của con, mẹ ước mong
được một lần nhìn thấy họ trước khi lìa đời, nhưng mẹ là người tồi lắm phải
không con?”
Nói đến đây bà lại lên cơn ho, nhưng những
tràng ho không đủ hơi để phát thành tiếng, chân tay mẹ nhức nhối bởi chứng thấp
khớp, mẹ đau lắm, khó chịu lắm nhưng không than một lời. Nhìn con người rã rời
của mẹ, cô biết mẹ đã và đang chiến đấu những nỗi đau dằn vặt cả thể xác và tâm
hồn, rồi thấy mẹ như choáng váng, Như Huyền dìu mẹ nằm xuống giường và nói
trong tiếng nấc van lơn: “Mẹ không có lỗi đâu, mẹ nằm nghỉ đi, con sẽ cố gắng tìm
bố và anh trai để ước nguyện của mẹ được thành sự”.
Lúc này trời đã quá trưa, Như Huyền cầm bát
cơm trên tay nhưng thấy mẹ vẫn đang ngủ, cô nhẹ nhàng bước ra để mẹ được yên
tĩnh trọn giấc ngủ.
Suốt thời gian vừa qua, Phi Hòa đi khắp nơi để
tìm tung tích của bố. Chứng bệnh thần kinh của ông đã làm cho anh phải chạy vạy
bao phen lo thuốc thang cũng như dong duổi tìm kiếm những lúc ông bỏ nhà ra đi.
Bình thường ông chỉ đi quá lắm hai ngày rồi về, nhưng lần này không phải hai
ngày mà cả hai tuần vẫn không thấy bóng dáng của bố ở đâu cả. Bần thần suy nghĩ
về cảnh đời của mình, lại lo cho bố bị bệnh làm anh nghĩ đến một gia đình hạnh
phúc trong mơ ước, giá mà…. Người đầu tiên hiện ra trong tâm thức anh là hình
ảnh Như Huyền, lập tức anh gọi điện thoại cho cô. Đáp lại nỗi nhớ nhung của anh
là một giọng nói yếu ớt mệt mỏi làm cho anh bồi hồi lo lắng gạn hỏi nhanh:
-
“Hình
như em không được khỏe phải không?”
-
“Vâng,
mấy hôm nay mẹ em ốm nặng nên em thức cùng mẹ luôn”.
-
“Sao
giống anh thế, mấy hôm nay anh cũng không được ngủ, đi công việc cả ngày, bây
giờ chán lắm, chẳng muốn làm gì nữa nè”.
-
“Điều
gì làm cho anh buồn vậy?” Như Huyền vội gạn hỏi
-
Phi
Hòa đáp thật nhanh không suy nghĩ: “Vắng em…!”
Những cơn mưa dai dẳng làm Phi Hòa nhụt chí
trong những chuyến hành trình tìm kiếm bố, anh thấy sự cô đơn trống trải đến
lạnh giá trong căn nhà rộng rãi vì vắng người cha, đặc biệt là người anh để tâm
trao tình yêu lại đang là người của Chúa. Để phá nốt lặng đang ngân không hồi
đáp, anh mạnh dạn nói tiếp.
-
Như
Huyền… “em nghỉ tu rồi về với anh đi”
-
Như
Huyền vội đáp lại bằng giọng dõng dạc: “Nhưng em đã khấn rồi mà”.
-
“Khấn
tạm vẫn về được! Anh nhớ em lắm, và … yêu em nữa. Em và anh cùng chăm sóc bố
của anh và mẹ của em, rồi cũng là bố mẹ của chúng ta… em nhé, về đây với anh đi”.
-
“Không
được đâu anh”.
-
“Thế
em có nhớ anh không, người đã cứu em trong vụ tai nạn…”
-
“Có
chứ, em rất biết ơn anh về vụ tai nạn đó”.
Rồi như chợt sáng kiến ra ý tưởng mới, Phi Hòa
vội nói tiếp: “À hay bây giờ anh về quê em nhé, cũng một lần biết gia đình và
mẹ em đang đau bệnh như thế nào”.
-
“Không,
không được đâu anh, anh là con trai về nhà nữ tu, dân làng họ dị nghị lắm, à mà
anh có nhớ mợ Nhung em không, mợ ấy không thích anh đâu”.
-
“Có
gì đâu mà sợ dị nghị, thì trước sau em cũng nghỉ tu về với anh mà”.
Ngập ngừng chốc lát, cô quả quyết: “Nhưng bây
giờ thì không được đâu, mẹ em mà nhìn thấy anh đi với em chắc mẹ sẽ đau khổ lắm”.
-
“Vậy
thì lần khác anh về nhà em nhé, nhưng em phải giữ gìn sức khỏe đó, mến chào em
yêu của anh, cho anh gửi một nụ lên trán em nhé”.
Ôm trên mình một bó to những lá thuốc nam cho
mợ Nhung, chiều nay Như Huyền cảm thấy sự giằng co mãnh liệt trong tâm hồn.
Chúa ơi, con phải làm sao đây. Lúc này mẹ con rất cần có con gái bên cạnh để
tâm sự chăm sóc, Chúa biết mẹ con chỉ còn mình con mà thôi, chỉ còn ba ngày nữa
con phải trở về nhà dòng rồi, con có nên tu tiếp hay ở lại phụng dưỡng mẹ hả
Chúa?
Bên cạnh cái ao nhỏ, cô thấy mặt nước kia êm
đềm du dương bằng những con sóng nhẹ lăn tăn trên mặt ao phẳng lặng. Thỉnh thoảng
có cơn gió chồm tới làm con sóng trườn nhẹ qua những đụm cây non gần bờ rồi lại
lặn xuống. Khung cảnh thật lung linh làm cô nhớ Phi Hòa, thật sự cô không thể
dối lòng khi nghĩ đến con người cường tráng kia lại nhẹ nhàng và tinh tế với cô
như vậy. Tất cả mọi cử động, lời nói, tiếng cười, dáng đi và cả những lo lắng
cho cô còn in lại từ ngày gặp anh lần đầu tiên. Rồi nhất là ánh mắt thân thiện
kia, thu hút và hấp dẫn cô quá, nơi cô lúc này đang dấy lên một niềm hạnh phúc
như nụ hoa còn kín đáo e ấp đợi thời gian bung cánh tỏa hương, bông hoa ấy sẽ
rất tự hào khoe sắc với đất trời bởi sự đỡ nâng của một bàn tay can đảm sẵn
sàng đáp ứng nguyện vọng dù nhỏ của cô.
Những cơn gió chiều xuân lẳng lặng phả vào mặt
cô ran rát bởi những nhụy hoa ngô bị gió đẩy bay rải rác lên người làm cô giật
mình tìm đường về nhà. Tắt ra lối cửa sau vào nhà bếp, cô rùng mình khựng lại
bởi tiết điệu chát chúa như tra khảo phát ra từ miệng mợ Nhung.
-
“Cả
đêm qua ông đi nhậu nhẹt rồi bơm tiền cho gái gú phải không?”
-
“Bà
đừng có nghĩ tầm bậy tầm bạ khi chưa biết rõ chuyện gì nhé”.
Mợ Nhung bực mình lấn tới và không quên nâng
giọng thêm một tông nữa
-
“Chuyện
gì của ông mà tôi chẳng biết. Đàn ông giống nhau cả thôi, ông biến đi khỏi nhà
này như ông Trung cho tôi khỏi phiền”.
Thế rồi chiếc lồng bàn treo trên tường cũng
vội phải hạ giá bay phăng phăng va vào đống bát sành đang đứng xếp hàng rồi vội
vàng lăn chổng kềnh xuống mép chân bàn, tranh thủ nghiêng mình liệng vài vòng
mới đập mặt xuống tháo lui.
Như Huyền đứng đó nhìn mà không sao hiểu được,
cô thì thầm với Chúa: “Ôi lạy Chúa, đây là hình ảnh của gia đình công giáo ư?
đây là bản diễn đàn hàng ngày của đời sống gia đình ư”. Hai đứa con của mợ cũng
vội chạy hết ra sân không muốn nhìn bố mẹ nó cãi nhau, nhìn chúng nó vẫn bình
thản chơi ô quan, phải chăng cảnh tượng này đã quen với chúng rồi.
-
“Bà
đừng nuôi thói chanh chua như thế”, ông chỉ thẳng mặt bà và nói tiếp: “Bà nói
gì thì nói chứ đừng đụng đến danh ông Trung nữa”.
Mợ Nhung cười khẩy chống nạnh tiến gần chồng,
rồi hếch cánh tay lên so vai nói tiếp: “Ai hơn ai? ông Trung cũng chỉ là người
tu xuất lấy người tu xuất thì còn danh giá gì mà nể trọng, còn con gái ông ấy
nữa, không biết tu được mấy ngày lại về cho mà xem”.
Lúc này Như Huyền chực muốn khóc thật to khi
biết quá khứ của bố mẹ, tay cô run run làm rơi phịch bó lá thuốc nam xuống đất,
gây chia trí cuộc chiến đang sôi động của cậu mợ phải đến hồi chấm dứt. Bỏ mặc
mọi sự ở đó, Như Huyền chạy thật nhanh về phòng của mẹ, nơi tình mẫu tử vẫn ôm
ấp và theo dõi từng bước chân của cô. Nhìn thấy con gái bước vào, bà mỉm cười
cố gắng gượng dậy để xoa đầu con gái, có lẽ bà biết cô đã nghe cuộc cãi vã vừa
rồi nên nói: “Như Huyền à, kể từ ngày bố mẹ con không theo ơn gọi tu trì, bố mẹ
con đã muốn dâng các con cho Chúa. Đứa anh không có ở đây, nên mẹ muốn con hãy
cố gắng theo Chúa đến trọn đời, đừng bỏ Ngài con nhé”.
Từng lời của mẹ rót nhẹ vào mạch máu nhỏ của
cô nhưng nó lại cuốn hút cả con tim đang muốn tháo lui làm cô rung lên và khóc
nức nở, tình yêu đối với Phi Hòa lúc này bất chợt bị thua khi đem lên bàn cân
so sánh với tình mẫu tử và trái tim khát vọng của người mẹ đang hướng cô lên
Giêsu, Đấng đang im lặng đợi chờ những ngày cô suy tính chùn bước, nhưng giờ
đây đang thiết tha nhìn cô một cách âu yếm của một người Cha. Lập tức cô vùi
đầu vào lòng mẹ mà khóc thật to, như để bung bức những tính toán làm Chúa buồn
lòng và để được khóc bên mẹ, nơi sự hiền dịu sẽ hiểu cho cô. Dứt cơn khóc, cô
nức nở quả quyết : “Mẹ ơi, mẹ ơi con đang có ý định bỏ Chúa, nhưng từ bây giờ
con hứa sẽ không bỏ đời tu đâu…” Bà mẹ vỗ vai an ủi và nói:
-
“Được
rồi, con gái ngoan của mẹ cố gắng lên, mẹ sẽ cầu nguyện cho. Còn một điều nữa
mẹ muốn nhắc lại với con đó là..con hãy đi tìm bố và anh con… rồi nói với họ,
mẹ… yêu họ lắm, mẹ… đã tha thứ cho ông ấy …từ lâu rồi…”giọng bà nhỏ dần nhưng
rất rõ từng âm từng từ.
Như Huyền vẫn ôm mẹ, cô ôm mẹ thật chặt như
không muốn để mẹ cô đi. Một lúc sau cô không thấy mẹ nói gì, rồi quay nhìn mặt
mẹ, thì kìa mẹ đã nhắm mắt ra đi vĩnh viễn…Bất giác, cô rùng mình gọi liên hồi
tên mẹ: “mẹ, mẹ ơi, mẹ của con…..”
Khoảng trời vẫn im lặng bên những đám mây màu
trắng ngà lồng quyện với màu bích ngọc làm mọi vật như sáng hơn, ngồi bên mẹ,
cô vẫn lặng thinh ôm thân xác vẫn còn vương chút hơi ấm và kìa nét mặt mẹ mỉm
cười trong sự mãn nguyện.
Cùng lúc ấy, tại ngôi làng nhỏ của Ninh Bình
một tiếng rú vang gầm cả ngôi nhà, Phi Hòa từ trong nhà chạy ra, thì kìa bố anh
đã trở về trong bộ dạng rũ rượi với khuôn mặt nhợt nhạt mệt mỏi, quần áo nặng
mùi sương gió của chuyến du hành xa xôi. Anh đỡ bố vào nhà với vẻ mặt buồn rười
rượi, nhìn bố, nhìn đời, anh chán ngắt, lòng nặng trĩu với mối suy tư và trăm
câu hỏi đặt ra về sự im lặng của Như Huyền, tại sao cô ấy không thể trả lời anh
một câu, hay nhắn một tin nào đó cho anh cảm thấy bình an. Cho bố uống thuốc
xong, anh chợt nghĩ đến mẹ Như Huyền, chắc mẹ cô ấy đang rất đau nặng, ý nghĩ
chiều ra sự thông cảm nhưng con tim lại ứa tràn sự nhớ nhung tha thiết.
Tại gia đình của Như Huyền, cậu mợ và các bác
đã trở về đầy đủ. Nhìn lên Thánh Giá, cô thầm thĩ, lạy Chúa Ngài đưa mẹ con đi
nhẹ nhàng quá, con cũng sẽ nhẹ nhàng để mẹ được về với Chúa. Đám tang thật đơn
sơ âm thầm, không kèn trống khoe khoang, không thuê đám hát ma chay, mà là một
thánh lễ thật ý nghĩa. Mẹ cô đã nằm gọn trong nấm mồ, chờ đợi ngày Chúa cho
thân xác được phục sinh.
Hết hạn nghỉ phép, cô quay trở lại cộng đoàn
để cùng dì Thanh về nhà Mẹ tĩnh tâm năm. Đi qua cầu Trung Hà, nơi quá nhiều kỷ
niệm làm cô bận tâm nhiều mối suy tư. Hình ảnh Phi Hòa vừa trở về trong ký ức
cũng là lúc tiếng chuông điện thoại của anh reo lên. Bao nhiêu cuộc gọi nhỡ và
tin nhắn hiện lên trong suốt những ngày qua, tiếng điện thoại vẫn reo cho đến
khi người bên kia bấm dừng. Nhìn lên khoảng trời bao la, cô thấy Giêsu đang đến
bên cạnh mình thật êm dịu làm sao, cô ngẩng mặt lên, nắm lấy tay Ngài đang chìa
ra đón và nói: “Huyền con! bước qua đây với Cha, con đang đi lộn đường rồi đó”. Cầm chiếc Nokia lên cô nói với Ngài: “Chúa ơi
con đã theo Ngài thì cần thứ này làm chi Chúa nhỉ”. Vụt một cái, chiếc điện
thoại theo đà phóng mình xuống dòng nước nơi hợp lưu sông Hồng và sông Đà đang
cùng chảy ra biển nhưng vẫn phân luồng đục trong để không dính bén những dính
líu đang trôi bên mình.
Bước vào nhà thờ thân quen, cô kính cẩn chào
tạm biệt người cha già đáng kính, hiền từ và thánh thiện. Trên đôi tay gân guốc
vì ăn chay trường, cha cũng run run lên vì xúc động những biến cố của cô, cha
trao cho cô cỗ tràng hạt và nói: “Con đường theo Chúa không bằng phẳng, nhưng
sẽ rất lý thú nếu con với Ngài cùng đi, những lúc buồn chán và thất vọng con
hãy gọi Mẹ Maria đi cùng, Mẹ sẽ ban thêm sinh lực cho con”.
Chương 4. Tĩnh tâm tại nhà mẹ
Tọa lạc bên triền đồi Bãi Dâu, nhà dòng được no
âm vị của biển cả đang ngày đêm rộng rãi trào dâng những ngọn sóng điên cuồng,
ào ạt lẫn êm ả, dập dềnh theo từng cảnh vực của ngọn gió. Về nhà Mẹ tĩnh tâm
lần này, Như Huyền mang theo nhiều tâm trạng như hương vị mằn mặn mà cô có thể
cảm nhận được ngay cả khi những làn gió phần phật thổi về. Dọc theo lối hành
lang mờ ảo đang lay động bởi những bóng cây nhấp nhô theo làn gió, những bóng hình
này in trên mặt tường trông thật lung linh huyền ảo làm cô tò mò bước tới. Tiếp
tục đến cuối hàng lang, cô nhìn thấy nơi tháp chuông in một nét mơ hồ, bóng
người to lớn hướng mặt ra biển. Oa! Đó chính là Đức Mẹ Bãi Dâu, dáng mẹ thật
hiền từ đang nhìn ra biển rộng mênh mông tít tắp, nơi có các con cái của Mẹ
đang ngày đêm chống chọi với bao hiểm nguy cuộn trào mong chờ ngày cập bến.
Nhưng chính nơi biển ấy lại chứa đựng bao ý nghĩa khôn tả, vì thế cô nhìn lên
Mẹ và ngâm khúc hát về biển.
Biển kia sóng nước ngàn trùng
Mênh mông rộng lớn khôn cùng dò sâu
Mặc ai biết được đến đâu
Biển kia vẫn hát câu ca rì rào
Tựa như một khúc ca dao
Mở lòng tắm mát cho bao con người
Biển trao khúc nhạc vui tươi
Cho bầy con trẻ được cười với nhau
Biển tung làn nước trắng phau
Xua tan ảo não sầu đau muộn phiền
Tình yêu biển rộng vô biên
Lặng nghe tiếng khóc tiếng rền mỗi đêm
Biển trao ngọn sóng êm đềm
Đẩy người lạc hướng về thềm ước mong
Biển kia vẫn mãi trắng trong
Dẫu đầy tạp chất cuồng phong đưa về
Biển đây chính là hiền thê
Nữ tu của Chúa câu thề phúc âm
Giữa bao thế sự thăng trầm
Vẫn luôn tỏa sáng ươm mầm yêu thương
Như biển chẳng chút vấn vương
Rì rào tiếng hát yêu thương cho đời
Mẹ ơi, ước nguyện khôn vơi
Cùng Mẹ con lướt sóng đời trần gian.
Bất thần một bóng người đi tới nhẹ ngàng vỗ
vào vai Như Huyền và nói nhỏ: “chị làm gì ở đây vậy?”
-
“Em
cùng Mẹ nhìn sóng biển”.
Bảo Trân ngơ ngác nhìn theo hướng tay Như
Huyền chỉ ra chiều buồn cười nói: “Biền có gì hay đâu mà nhìn, sóng cuồn cuộn gào
thét suốt ngày điếc cả tai, nên em muốn xin Dì Giáo đến cộng đoàn nào không có
biển để tránh những đợt sóng điên cuồng như cơn thịnh nộ của đại dương ập về”.
-
“Thế
chị có thích đến miền truyền giáo không”? Như Huyền gợi hứng cho Bảo Trân.
-
“Có
chứ, hay chúng mình xin Dì cho đến đó nhé”.
Hai chị em êm đềm vào giấc ngủ bình yên trong
nhà dòng, thì nơi kia, anh chàng Phi Hòa đang ôm nỗi đau của sự tuyệt vọng. Anh
lo lắng bởi những bất trắc có thể xảy đến cho Như Huyền, nhất là mẹ cô đang trọng
bệnh. Tiếng hồi đáp cùng một âm giọng của điện thoại vang lên: Số máy quý khách
vừa gọi hiện không tồn tại, làm cho anh hướng chiều sự nghi hoặc về Như Huyền.
Từ Ninh Bình anh ngược lên cộng đoàn nơi cô ở,
thì kìa một sự im lìm bao trùm cả ngôi nhà đang khóa chặt, những lá cây đủ loại
lẻ tẻ từng ngày rơi vãi kín đầy sân. Tức thì, sự oán hận vây bủa kín tâm trí
anh như con dao lam nhẹ nhàng cứa lên da, và chỉ khi nào máu nhỏ giọt xuống anh
mới thấy sự tê buốt đến tột cùng. Sự im lặng của con tim và cả sự trống vắng
của ngôi nhà làm máu anh sục sôi điên tiết đấm mạnh bàn tay vào gốc cây xà cừ
cứng cáp để trả thù cho tình yêu đang manh nha lớn dần nay bị vụt biến như cục
đá lạnh bị hòa tan trong đại dương không để lại dấu vết. Da mặt anh căng và
nóng bừng lên hùng hổ phóng xe nhằm thẳng hướng Đông Bắc để đổi đời, để quên
những quá khứ đang đè nén con tim vốn rạn nứt nay lại rách toạc trong sự chán
chường đến vô tận.
Chương 5. Nhiệm sở mới
Ngày 15 tháng 8 năm 2005. Chuyến xe lửa vừa đáp
tới ga Hà Nội, hai chị em bắt xe ô tô lên nhà Mồ côi Thánh Tôma Aquino tại Tràng
Định – Lạng Sơn, nơi có cộng đoàn các dì đang phục vụ. Xe vừa cập bến, Bảo Trân
ồ lên sự ngỡ ngàng trước cảnh đẹp tuyệt diệu ở nơi đây, chiếc va li đã bị cô
ném phịch xuống đất để chạy tới con suối đang réo rắt khúc hát du dương mà lần
đầu tiên cô được tận mắt thấy, bắc ngang suối là cây cầu tre nối với cánh đồng
lúa nằm theo tầng uốn lượn quanh quả đồi thâm canh, những khóm lúa đương độ con
gái đang mang bụng căng tròn, chuẩn bị cho ngày trổ đòng sắp đến, lốm đốm vài chỗ
là những chòm lúa bị bón nhiều phân đạm nên chỉ lo vươn mình và phơi những tấm
áo xanh mướt lên bầu trời mà quên đơm đòng cùng các chị lúa khác cho đúng thời
vụ. Lác đác vài người đang ra sức dùng cái sòng tát nước lên những ruộng cao để
tránh nghẽn đòng. Vừa lúc đó, hai dì Trúc Nương và dì Kiều Thu ra đón, theo sau
là đám trẻ thiểu năng trí tuệ reo hò vì có sự hiện diện của hai dì mới. Cả nhà
có hơn chục em bao gồm các dạng tật khác nhau: chậm phát triển trí tuệ, mù, điếc,
khó khăn vận động và bại liệt.
Ở cộng đoàn còn có chị Thu Thảo, bạn cùng lớp
khấn của Như Huyền đã ở đây một năm, chị ít nói, dịu dàng và duyên dáng nữa.
Ngoài ra, chị Lan cũng được kể vào thành viên của nhà Mồ côi. Từ ngày chồng chị
chết vì tai nạn, một mình chị nuôi hai đứa con khuyết tật, khó khăn quá nên chị
xin vào nhà các dì nhờ nuôi giúp.
Vừa nhìn thấy tượng đài thánh Tôma Aquino, Bảo
Trân lôi Như Huyền ra nói nhỏ: “ơ đây là viện Mồ côi hay trường thần học hở chị?”.
-
“Đương
nhiên là viện Mồ côi rồi”. Được đà, Bảo Trân nói tiếp: “Chắc không bao lâu nữa,
Giáo Hội sẽ có thêm mấy bộ tổng luận thần học cho mà xem, hi hi”
-
“Này,
chuyện gì cũng có ý nghĩa của nó đấy chị ạ”, Như Huyền ghé nhỏ vào tai Bảo Trân
nói tiếp: “các mái ấm hay nhận Thánh Martino, thánh Vinh sơn, hay Thánh Têrêsa
Callcuta, nhưng cộng đoàn này lại muốn học điểm sáng nào đó nơi thánh bổn mạng
Tôma thì sao”.
Lúc này dì Kiều Thu vừa đi tới thấy hai đứa
đang to nhỏ với nhau liền nói: “mới đến cộng đoàn mà đã xì xèo gì đó, đây là
Như Huyền phải không? À, Như Huyền mẹ mới mất đó hả, thế bố em có trở về không?
Bây giờ thì mồ côi thật rồi đó”.
Hàng loạt câu hỏi làm Như Huyền đứng sững lại,
cô không thể trả lời được câu nào, chỉ gật đầu lẳng lặng vào phòng nghỉ ngơi
theo sự chỉ dẫn của dì Nương
Trong màn đêm tĩnh mịch của dân cư vùng thiểu
số miền núi thật yên lành, chỉ còn lại vài con phèng phèng còn tiếc rẻ chút hơi
lực tàn trong ngày, những chú chim cũng yên mình trong những tổ ấm gia đình,
Như Huyền nhìn xung quanh cảnh vật một lần nữa như để hít hà thật sâu cái không
khí có vị ngọt ngào quyến rũ mà chị gió đã gom các loại hương hoa từ triền đồi
bên kia về, nó như liều thuốc tiên làm cô quên hết mệt mỏi bởi tiếng la hét của
đám trẻ.
Bé Thiên Nga, biệt danh là Thiên Nga mù cũng
vừa ngủ sau màn khóc tỉ tê mà cô phải bế đi rong suốt cả tiếng đồng hồ mới chịu
nín, bé mới hai tuổi nhưng đã biết làm nũng cả nhà bằng những trận khóc vô thời
gian, với làn da trắng và khuôn mặt dễ thương bởi má lúm đồng tiền luôn biết
nói khi nở nụ cười, bé là loài hoa cho người khác ngắm, nhưng chính mình thì
không biết gì vì bị mù từ thủa mới sinh. Từng hơi thở đều đặn phả ra, Như Huyền
biết các cháu đã ngủ rất say, quay lưng định ngả xuống giường thì một tiếng
rầm….rầm ở đâu vang đến, riêng bé Hà bị điếc nên không nghe gì, còn mấy bé kia
đều tỉnh giấc, dì Trúc Nương vội chạy vào cùng Như Huyền ru cho các bé ngủ. Lấy
làm lạ cô hỏi nhỏ dì:
-
“Dì
ơi, tiếng gì vậy hả dì”.
-
Dì
Nương thở dài rồi khẽ nói: “bọn lâm tặc lại phá rừng đó con, chúng nó chỉ lộng
hành vào ban đêm thôi, sáng ra để ở lán rồi chở đi bán”. Tội nghiệp các cháu đã
khó ngủ lại bị tỉnh giấc luôn.
-
“Thế
không có trạm kiểm lâm hả dì”.
-
“Ôi,
cùng ăn dơ với nhau thì ai bảo được ai, các cây lớn bị chặt phá vậy sẽ có ngày…
mà thôi ngủ đi con sáng mai còn làm việc khác”.
Ngày chủ nhật, sau khi tham dự giờ cử hành
phụng vụ Lời Chúa, Như Huyền ở lại dạy giáo lý cho các em ở đây, lớp học gồm
mười hai em đủ mọi lứa tuổi từ mẫu giáo đến lớp bảy nhưng đứa nào cũng nghịch
như giặc, nhìn chúng hùng hổ láo xược, Như Huyền thấy chúng như lũ ngựa hoang
chưa thuần, muốn nghỉ muốn học một cách tự do. Chán ngán, cô quát và đuổi thẳng
chúng nó về nhà.
Đem bộ mặt bực dọc về nhà sớm, Dì Nương tinh ý
đón đầu hỏi:
-
“Sao
về nhà sớm vậy con”.
-
“Dì
ơi, chúng nó bướng lắm, nói không nghe con đuổi về hết rồi”.
-
Dì
Nương vỗ bàn tay đẹt một cái vẻ tiếc nuối và nói: “công toi rồi Huyền ơi!”
Cả tuần qua hai dì đã đến từng nhà động viên
chúng nó đến nhà thờ, mà con đuổi vậy thì sao truyền giáo được. Đất đai ngày
một khô cằn nên gieo hạt giống khó lắm, dì đã gieo hơn hai mươi năm mà chưa
thấy hạt mầm đức tin nào mọc lên, phải tin tưởng để Chúa làm.
Thừa lúc đó dì Kiều Thu vừa tới không quên ném
một câu đầy mỉa mai: “Nghe nói nó đạt hạng ưu thần học mà!. Mấy đứa nhãi cũng
không giữ nổi”.
Nghe vậy dì Nương chỉnh lại: “Dì Thu nói vậy
chứ không có ý gì đâu, lần sau con để ý hơn nhé. Nếu dùng bằng cấp hay quyền
hành thì khó truyền giáo lắm. Dì nói vậy con hiểu chứ!”
“Nhưng chúng nó nghịch và láo lắm, không chịu
nghe giáo lý đâu”. Như Huyền thắc mắc.
“Đúng vậy đó con, nếu mình nói về Chúa chúng không
chịu nghe, thì nói với Chúa về chúng, chính Chúa sẽ có cách. Thôi, làm việc đi
con”.
Chương 6. Câu chuyện bên bến cây Đa
Thông qua lối sau vườn cây ăn trái của cộng
đoàn là một con lộ nhỏ, ngang qua con lộ ấy chừng nửa cây số là một con suối
nước trong veo, chảy ngày đêm không ngớt. Dọc lên phía trên lồ lộ một dòng nước
lớn chảy ùng ục quanh những cục đá mòn, ngầu bọt chĩa ra những dòng nước nhỏ
theo những khe đá mọc đầy cỏ như hình cánh quạt rồi oàm oạp thả nước xuôi xuống
bên dưới. Như Huyền và Bảo Trân chạy tới một gốc cây Đa, nơi có những rễ cây
vươn dài xuống rìa nước, bám chắc vào chỗ đất ít ỏi để chống cự thân mình, chắc
nhờ cây đa cổ thụ chiếm hữu ở đây nên nó được mang danh bến cây Đa chăng?.
Chọn chỗ nước không sâu, nơi có mỏm đá nhô lên
mặt nước, hai chị em xả hết chỗ quần áo đầy mùi tạp nham sau một đêm của các
cháu. Vọng từ xa, tiếng còi xe tải nhỏ đang ình ịch hổn hển lên dốc, bởi thân
mình chở đầy gỗ nặng đang trên đường đi bán cho các mối. Bảo Trân mải miết ngắm
những bức tranh hiện thực như thiên đường, còn Như Huyền bước lên dọn quần áo
vào chậu. Ngước mắt lên, cô thấy bóng dáng người đàn ông đang đi tới, chắc là
người lái xe muốn xuống suối rửa mặt. Loáng thoáng với bóng người đang gần tới
làm cho chân cô khựng lại như con chim non vướng phải cành cây trét hắc ín, hai
tay cô buông thõng trong tư thế sững sờ khi nhìn thấy người đàn ông đó không ai
khác mà chính là… Phi Hòa. Môi cô run run định gọi tên anh nhưng lại nén chặt
trong cái bất ngờ không kịp định suy.
Như Huyền vừa nhận ra Phi Hòa, thì cùng lúc
anh cũng kịp nhận ra đối tác đang đứng trước mặt mình là ai. Như Huyền chưa
biết phản ứng làm sao thì Phi Hòa đã từ từ bước tới, không quên mang theo nòng
súng có hai viên đạn đỏ như lửa đang long lên bởi đôi mắt đang chiếu thẳng về
phía cô, tay anh kiêu căng nắm chặt lại vòng qua thân thể lạnh lùng như khúc gỗ
di động đang tiến gần. Trong thoáng chốc anh đã tiến sát gần người cô, sự bén
nhạy của lý trí đã thức tỉnh bảo cô tháo lui, nhưng vô ích vì anh đã đẩy cô sát
gốc cây Đa rồi. Biết hết đường lui, Phi Hòa ngẩng mặt lên trời cười sằng sặc
rồi nhanh chóng đổi sang nét mặt hung hăng cùng hét thật to vào mặt Như Huyền:
-
“Đây
là trò gì?, Cô im lặng rồi bỏ đi, cô đối xử với tôi như vậy ư?”
Sự căng thẳng vây bủa xung quanh như đám mây
đen lảng vảng dưới lưng trời trong xanh của khu rừng mùa thu, cô nhắm mắt lại
thầm kêu lên Chúa: “Lạy Chúa, con đã cố gắng tránh mặt để quên đi những chuyện
cũ, sao Chúa lại cho con gặp rắc rối này”. Khoảng trống lạnh tanh làm cho mặt
anh gay đỏ. Bực mình, anh đưa tay ra trước đấm mạnh vào thân cây, giật mình bởi
cú đấm đã chạm vào vai cô, lúc này Như Huyền mới mạnh dạn trả lời.
-
“Tôi
xin lỗi, tôi…. thật sự xin lỗi”.
Phi Hòa dơ bàn tay thâm tím đang sưng lên vì
cú đấm mạnh vừa rồi và dằn từng chữ: “hãy nhìn tay tôi đây”. Sau đó anh hạ
giọng nói tiếp: “Sự im lặng của cô đã khiến trái tim tôi bầm giập và thâm tím
như vậy đó, tôi đã lo lắng cho cô, còn cô thì thảnh thơi ra đi không một lời”.
Im lặng một chút, Như Huyền thấy mặt anh đã
dịu hơn nên nói:
-
“Thật
sự cho tôi xin lỗi, tôi đã là nữ tu của Chúa, là bông hoa có chủ, nên tôi chỉ
yêu một mình Ngài mà thôi, mong anh hiểu và tha thứ cho tôi”.
-
“Chỉ
vì một sự mê tín vào ông Giêsu nào đó mà cô đã từ chối tôi, người đang hiện hữu
ngay trước mặt đây”.
Như Huyền biết nếu nói thêm lúc này cũng chẳng
được gì nên cô cúi nhẹ người và bước qua khỏi ánh mắt của anh và nói: “tôi xin
phép đi về nhà”.
Cuộc nói chuyện chấm dứt cùng lúc Bảo Trân
chạy tới, tay ôm cả vạt áo quả mua tím hí hửng chạy lại khoe Như Huyền.
Chương 7. Tại bến Đá Kép
Hai tuần sau, Như Huyền lại ra con suối để
giặt quần áo, nhưng cô không giặt ở bến cũ, mà lên bến phía trên. Dẫm trên
những lớp lá bạch đàn được xếp chồng nhiều lớp do những đợt lá vàng rụng gom
lại thành tấm thảm dày cộm, cô cảm giác như có độ nhún bởi lớp lá dưới cùng
đang phân hủy thành mùn, bước đi dù nhẹ nhưng vẫn rộn tiếng xào xạc của những
lá bạch đàn mới rụng, thân mình còn cứng cáp đang nằm ngửa nhìn cây mẹ trong sự
tuyệt vọng. Lác đác vài bụi cỏ đâm mình trong đám mùn ẩm ướt để hút dinh dưỡng
rồi lao thẳng lên mặt đất, không e ngại bóng chắn của những cây cao lớn. Vài
chiếc lá bạch đàn khô cong hấng đẫm sương đêm đang đổ vào chân cô. Đột nhiên
linh cảm tiên báo có điều gì đó không an toàn, lập tức, cô quay về thì nghe
tiếng ai đó vọng lại:
“Đã mất công lên bến trên rồi, còn muốn xuống
bến dưới làm chi!” Sau tảng đá hình cánh buồm kép đôi sừng sững giữa vườn bạch
đàn, Phi Hòa bước ra và nói một cách thản nhiên: “Hữu duyên thiên lý năng
tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng”. “Không biết ai đó đã khéo
xếp đặt sự trùng hợp này nhỉ?”
Anh mời Như Huyền ngồi bên tảng đá, quay sang
nhìn Như Huyền và nói tiếp: “Anh đã chờ em từ sáng sớm, và quả đã đạt được điều
mong ước”.
Đáp lại anh vẫn là một sự im lặng, Như Huyền
bần thần trông qua cánh đồng lúa xa xa đang bị những cây bóng mát cao lớn trên
đồi điểm xuyết trên thảm lúa mênh mông, đổ dài thành vệt đen lung linh, dù ông
trời đang thẳng trên cao vẫn không đuổi hết bóng phủ của rừng cây do ngọn gió
ùa đến. Quay sang Như Huyền, anh kéo cô về thực tại và hỏi:
“Mẹ em sao rồi, vẫn khỏe chứ?”
“Xin lỗi, hãy gọi tôi là dì, vì tôi đã đi tu
rồi”.
Không để anh đợi lâu cô nói tiếp, “Mẹ của dì
….mất rồi”, cô trả lời mà gần như muốn khóc bởi sự nhớ nhung lại tràn về. Nhưng
thật nhanh chóng cô thu lại sự cam đảm và nói tiếp: “nhưng mẹ cho dì nhiều bài
học lắm, đó là đi đúng con đường mình đã chọn - con đường dâng hiến cho Chúa”.
Như đáp trả lại sự quan tâm, cô cũng hỏi tiếp về anh: “thế còn bố của anh sao
rồi?”
“Bố của anh không được khỏe lắm, nhưng ông cứ
đi hoài như đang tìm kiếm một ai đó”.
-
“Người
thân”. Như Huyền quay sang hỏi.
-
“Có
lẽ là vậy”.
-
Như
Huyền suy nghĩ một lúc rồi nói tiếp:” chắc là phải người quan trọng lắm, có
phải ông đi tìm ai đó trong tổ tiên đã bị thất lạc, nếu vậy thì nhờ khoa ngoại
cảm họ làm được mà”.
-
“Không,
không phải đâu, tổ tiên nhà anh vẫn đầy đủ mồ yên mà đẹp”, Phi Hòa phủ định
ngay điều này
-
“Vậy… có khi nào là vợ của ông ấy”. Như Huyền
buột miệng một cách không suy nghĩ.
-
Phi
Hòa phần trần: “anh cũng không biết, vì chưa lần nào bố nhắc đến mẹ anh cả. Anh
cũng mong muốn một lần nhìn thấy mặt mẹ của mình, nếu có thể thì được sống cùng
mẹ suốt cuộc đời còn lại”. Im lặng một lúc như để nguôi ngoai sự cô đơn của
mình, anh chuyển sang nét mặt hớn hở, tiến gần lại nắm tay Như Huyền nói:
-
“Như
Huyền à, em có thể suy nghĩ lại được không. Anh vẫn chờ em mà”.
Như Huyền giật mình đứng phắt dậy và nói: “Không
đâu anh, điều dì đã quyết là đã quyết, dì không đi con đường ấy đâu”.
Phi Hòa cũng đứng lên và phân bua: “nhưng,
nhưng em đâu khô khan như… cục đá!”
Với giọng nhẫn nại, cô khẳng định với anh: “đúng
vậy, dì vẫn là một con người, với những khát mong và khắc khoải như một con
người. Giả như anh chăm bẵm và hết lòng đặt tình yêu thương vào cây hoa hồng,
đáp lại sự yêu quý ấy, bông hoa từ từ hé nở nụ cười cho anh ngắm từng ngày.
Nhưng mẹ anh không biết đã ngắt bông hoa ấy dâng cho Chúa trong nhà thờ, thì
bông hoa vì xa chủ cũng buồn lắm chứ, nó phải chiến đấu để thắng sự nhớ nhung.
Rồi một ngày kia bông hoa nhận ra nó được dâng cho Thiên Chúa, và nó nhận ra
mình đang được sở hữu một kho báu sự sống và một tình yêu chân thật, đó chính
là Đức Giêsu và Tin Mừng của Ngài. Nó vui vẻ ở lại trong nhà thờ và dành trọn
đời mình để sống tình yêu ấy”.
Phi Hòa chăm chú lắng nghe, nhưng cái tên
Giêsu nào đó vẫn làm anh bức xúc khó chịu khi Như Huyền cứ đem ra làm dẫn
chứng. Rồi anh xẵng giọng: “Giêsu là ai, anh không biết, em đừng nhắc đến cái
tên ấy trước mặt anh nữa”. Nói đoạn anh nhảy lên chiếc xe tải chất đầy gỗ đang
ngồi chờ chủ tại cuối con dốc để đi gặp các mối buôn.
Chẳng phải anh ấy đã học giáo lý dự tòng rồi.
Như Huyền nhớ lại điều đó. Nhưng bây giờ là một sự phủ nhận phũ phàng về Chúa
Giêsu. “Ôi lạy Chúa, xin chỉ cho con biết con phải làm gì”.
Chương 8. Giá trị con người
Trở lại dòng suối thân quen với những tiếng ào
ào và vui vẻ tung bọt nước trắng xóa lên giỡn chơi với nhau thật thỏa thích.
Hôm nay Như Huyền dẫn theo một bé bị đao và một bé thiểu năng trí tuệ cùng khó
khăn ngôn ngữ nhưng chân tay lành lặn ra suối phụ dì giặt chăn màn, nói là phụ
dì cho oai nhưng thực ra dì muốn cho các em tập bơi trên những bè chuối nơi chỗ
nước không sâu để các em được tắm những làn nước mát lạnh tận đáy thiên nhiên
đang mời mọc.
Leo lên chiếc cầu tre, Như Huyền chạy lại gần
cánh đồng lúa đang thi nhau trổ đòng, những ruộng lúa xếp theo tầng từ thấp đến
cao trông như những bậc thang lên trời, nơi đó gắn những màu xanh óng ánh bởi
ánh mặt trời phả xuống. Nhất là mùi sữa của lúa non mới trổ với hương thơm thoang
thoảng làm tâm hồn cô cảm thấy thanh thản đến kỳ lạ. Nhắm mắt một lúc cô thầm
nguyện ước với Chúa:
Cây lúa phơi phới trổ đòng
Gà vịt đừng ngắt đau lòng người dân
Hạt lúa nắm gạo cơ bần
Trâu đừng giẫm nát cơ phần dân đen
Đẹp lạ thay, lạy Chúa, những cây lúa mỏng manh
bắt đầu cong cong về một hướng khi mang trên mình những người bạn mới. Những
hạt lúa xanh xanh lớn dần lên trong sự kết tinh của bùn đất, của nắng, của gió
và bao công lao chăm sóc của bàn tay con người. Lá lúa cũng dày hơn, gân lá ở
giữa cứng cáp hơn, cọng lá cũng sắc bén. Bông lúa lúc này cũng đã có hình
dáng của bông trưởng thành, hình thoi cân đối, nếu đưa lên miệng cắn
sẽ cảm nhận được sữa lúa màu trắng đục, giống như màu sữa mẹ, vị mát,
thanh. Đó là những cây lúa mà chỉ vài tháng nữa thôi là sẽ
mang lại cho người nông dân một vụ gặt bội thu.
Một cơn gió tới, cây đua cây, từng
khóm lúa đung đưa múa vờn vì dường như chúng biết chúng mang một vẻ đẹp
đầy kiêu hãnh, thanh thoát. Như Huyền cũng mong đời mình như những
cây lúa phát triển mỗi ngày, dù trên mình mang những lông nhám của lá, của vỏ
hạt làm ngứa ngáy khó chịu nhưng chứa đựng bên trong là cả một sức sống tiềm
tàng mà không mấy ai ngờ tới.
Tiếng xe ùng ục không mời lại nhào tới, Như
Huyền chạy dọc theo chiếc cầu tre trở về bến cây đa bên này, cùng lúc Phi Hòa
cũng xuống suối rửa mặt, vã nước lên mặt vài cái rồi anh bước tới chỗ Như
Huyền. Nghe tiếng bước chân tới Như Huyền quay lại hỏi:
-
“Anh
vẫn làm nghề chở gỗ ư, dì nghĩ anh nên bỏ nghề này đi!”
-
“Trời,
đầu óc nhà tu chỉ nghĩ đến sự an nhàn thư thái nên không biết cái gọi là phiêu
lưu và chinh phục là gì đâu. Những cây cổ thụ lớn, lớn lắm, tôi vẫn nghĩ ra kế
để đốn nó xuống được. À mà dì lại đây tôi cho xem cái này!”
-
“Rắn,
ôi trời ơi”. Như Huyền xanh mặt hét lên.
-
Phi
Hòa thừa cơ cười xòa xòa và lôi hai con rắn hổ mang bạnh và cạp nong xuống và
nói: “nó đã bị cột chặt rồi làm sao cắn được mà sợ. Bọn tôi phải săn nó cả
tiếng mới bắt được, tối nay tôi có bữa nhậu ngon lành rồi đó. Dì có đến chung
vui với chúng tôi không?”
Không trả lời thẳng câu hỏi, mà cô nhìn sang
khu rừng nguyên sinh rộng lớn, với hàng ngàn cây cổ thụ quý giá và bao con vật
bị con người ngày đêm săn bắt. Bên cạnh khu rừng đó là quả đồi độc canh chỉ còn
lưa thưa vài đụm cây nho nhỏ vì bị con người canh tác hoa màu, thấy tương lai
khu rừng ấy không mấy chốc cũng sẽ bị tàn phá, cô đau lòng quay sang nói với
Phi Hòa: “Môi trường tự nhiên mang đầy vết thương do thái độ vô trách
nhiệm của chúng ta gây nên. Bởi vậy, dì mong anh hãy từ bỏ nghề này đi và dấn
thân bảo vệ cho buồng phổi của hành tinh chúng ta đang bị tàn phá cách trầm
trọng, đừng tham gia vào việc bóc lột thiên nhiên một cách khủng khiếp như vậy
nữa, được không anh?”
Hạ thấp giọng xuống nhưng rành rọt từng câu
chữ, Như Huyền nhìn thẳng vào Phi Hòa nói: “Anh Phi Hòa à, nếu chỉ tìm năng
xuất kinh tế nhanh và dễ dàng nơi việc phá rừng như vậy là anh đã tham gia vào
việc giết môi trường và con người đó.
Đáp lại sự chờ đợi của Như Huyền, Phi Hòa phân
bua: “Nếu anh nghỉ làm thì vẫn đầy người khác làm đó thôi, ngay cả những ông
lớn ở đây cũng nhúng tay vào mà”.
Hai bé khuyết tật tắm chán chạy lại chỗ Như
Huyền, vui vẻ kể những thành tích của mình khi cùng nhau thi bơi ở suối. Phi
Hòa thấy hai bé khuyết tật liền dò hỏi Như Huyền:
-
“Thì
ra dì ở nhà Mồ côi à?”
-
“Đúng
vậy, mà sao anh biết nơi đó?”
-
“Biết
chứ, cả tỉnh này ai mà chẳng biết đây là nơi nuôi các em khuyết tật và mồ côi.
Phi Hòa hắng giọng một cái rồi ra vẻ chê bai: Anh tưởng dì Huyền học đến chừng
này để đi làm công tác xã hội, hay ít ra thì dạy học cho các em để sau này
chúng thành những người tài cho đất nước, chứ nuôi mấy đứa khuyết tật đó được
gì, chẳng mấy chốc chúng lăn quay ra chết, mất bao công người nuôi”.
Như Huyền thật sững sờ khi nghe câu nói đó và cao giọng: “Anh không được phép sỉ nhục chúng như vậy”.
Như Huyền thật sững sờ khi nghe câu nói đó và cao giọng: “Anh không được phép sỉ nhục chúng như vậy”.
“Ngày xưa ở Vạn Thủy, dì nhớ anh đã từng xin
học đạo để gia nhập Công Giáo, nhưng tiếc thay anh chỉ nhìn thấy hình ảnh của
Chúa qua những con người có đầy đủ tài năng và đức độ theo phẩm cách người nay
vẫn nghĩ. Anh chưa biết, thì nay dì nói cho anh biết, Như Huyền nhấn mạnh:
thang điểm nhân cách không phải là thước đo của lòng tôn trọng, mà chính là ngã
vị. Ngay từ khởi nguyên khi sáng tạo trời đất, Thiên Chúa đã sáng tạo mỗi con
người từ tình yêu (x. St 1,26) và ban cho họ phẩm giá lớn lao, nên mỗi người
đều có quyền được tôn trọng, được làm chủ mình và bước vào mối liên hệ với những
người khác. Nơi dì, anh và hai em khuyết tật đang đứng trước mặt anh đây đều là
hoa trái suy tư của Thiên Chúa. Mỗi người được Thiên Chúa muốn như thế, mỗi
người được yêu và mỗi người thật cần thiết”.
Phi Hòa thấy nhột nhột như bụi nhám bị gió hất
vào từng cái lông tơ trên mặt, anh ngồi im không nói gì. Nhưng lúc sau đó sự tự
ái trong con người bỗng vùng trỗi dậy, anh thấy uốt nghẹn như bị sỉ nhục, anh
là người đáng chê trách vậy ư, không thể nào. Thế rồi anh cũng tự vấn với Như
Huyền: “Dì có lý do của dì và không chấp nhận lý lẽ của tôi, và tôi cũng vậy,
tôi cũng có lý lẽ của tôi, nên tôi cũng không chấp nhận giáo huấn ấy của Dì.
Hai chúng ta không cùng tôn giáo lẫn quan điểm”.
“Đúng vậy, nhưng…” Như Huyền định trích dẫn
thêm cho anh biết về thế giới ngày nay cũng đang đề cao phẩm giá người khuyết
tật, nhưng có lẽ anh không đủ khả năng để nghe lúc này nên cô thôi không nói
nữa.
Đáp lại sự ngưng trệ của thời gian đang lẵng
bẵng trôi vô ích, anh cáo từ ra về và không quên quay lại cố nói một câu: “Nhà
các dì nuôi hơn chục đứa khuyết tật còn chưa đủ mệt ư, tôi sẽ đi vét hết các em
khuyết tật trong tỉnh về đây cho các dì bằng lòng.
Chương 9. Thánh Lễ chạy lụt
Tin tức cha xứ ngược 80km đường rừng để đến
vùng núi này dâng Thánh lễ làm bà con ai cũng háo hức đến nhà thờ đọc kinh và
chờ cha trước cả hai tiếng đồng hồ. Nghe nói cha xứ cao to và khỏe lắm nhưng
cha hơi hống hách với giáo dân ở đây, những lần trước chỉ có người lớn mới được
vào nhà thờ lễ, còn trẻ con thì bị đuổi ra ngoài hết, vì cha không chịu được
tiếng trẻ con khóc hay nói chuyện trong nhà thờ. Với nét kỷ cương nề nếp của
dân đạo toàn tòng tại giáo xứ chính của cha đã ăn sâu vào ý thức, thánh lễ có
được trang nghiêm sốt sắng thì giáo dân phải tham dự một cách nghiêm túc. Lần
này các dì xin Cha cho phép các em vào dự lễ cùng cũng quả là một thử thách táo
bạo.
Mở đầu thánh lễ với bài hát “ Con sẽ hân
hoan”, cha xứ bước ra trong dáng vẻ uy nghi bệ vệ như một ông quan lớn, quả
thực cả nhà thờ này không ai cao đến vai của cha, cái bụng nhô ra làm Như Huyền
trộm nghĩ, may là cha truyền chức rồi, chứ nếu còn phó tế thì khi nằm sấp hát
kinh cầu các thánh trong thánh lễ truyền chức sẽ bị “ cập kênh “ ngay. Với hàng
râu quai nón quanh cằm đang lún phún mọc những sợi lông đen to cứng chưa kịp
cạo, làm cho cha có vẻ nghiêm hơn, nhờ vậy đám trẻ con cũng ngoan khoanh tay
thưa lễ. Vừa kết thúc bài đọc một, liền có đứa trẻ quay sang nói chuyện, được
đà, đám con gái bên này cũng tự do chạy ra ngoài rồi lại chạy vào, đám con trai
thì thừa cơ lúc dì đang để ý bên con gái thì chúng dành nhau đồ chơi của một
đứa lén mang vào nhà thờ. Lúc này mặt Cha xứ đã bắt đầu đỏ bừng lên tỏ vẻ không
bằng lòng. Dì Thu vẻ mặt hằm hằm bước lên suỵt suỵt bọn chúng, còn Như Huyền
thì bế thằng nhỏ đang tỉ tê từ nãy ra ngoài, nhưng nó không chịu và gào to lên.
Không thể chịu được, nên trước khi công bố lời Chúa, cha xứ nhắc nhở: Đề nghị
quý dì giữ trẻ im lặng cho tôi tiếp tục làm lễ.
Khi đám trẻ như đã yên ổn hơn một chút, thì kìa,
ngoài trời bắt đầu tối dần lại, những đám mây đen từ từ kéo đến, một cơn mưa
rào ào ào đổ xuống hắt cả vào nhà thờ qua các ô cửa sổ. Bỗng một người đàn ông
từ ngoài chạy vào hô lớn: lụt lụt, lụt rồi, bà con ơi đi cứu lúa thôi, người ta
xả đập thủy điện ngập hết cả cánh đồng lúa trũng rồi kìa.
Trong nhà thờ người trước kẻ sau chạy toáng ra
hết, nhà thờ chỉ còn lại mấy dì và đám trẻ con. Cha xứ bước xuống nói với dì
Huyền đứng gần đó đang dỗ một đứa trẻ la khóc vì sợ hãi và nói: “Các dì ở đây
làm việc lơ là quá, không có chút nhiệt tâm và sự ưu ái đến Thánh lễ chút nào,
mấy đứa con nít cũng không coi ra hồn. Dân chúng nữa, coi trọng của ăn thể xác
hơn của ăn tâm hồn! Thật là không ra làm sao cả”.
Không kìm được trước sự kết án quá đáng, Như
Huyền khẳng khái đáp lại: “Là cha xứ mà cha nói vậy được à, cả tháng cha chỉ đến
đây được một lần làm lễ rồi ra về luôn thì làm sao cha hiểu hết dân sống ở đây
như thế nào?”
Cũng đụng đến lòng tự trọng của mình, cha chỉ
thẳng vào mặt dì Huyền và nói: “Một sơ nhãi mà dám dạy tôi à?”
-
“Thưa
cha, con không dám, con chỉ muốn cha có cái nhìn rộng hơn và sâu hơn thôi”. Như
Huyền khiêm tốn đáp lại.
Rồi thật nhanh, cha xách cái giỏ và cho vào đó
những đồ dùng cần thiết rồi đi thẳng, không thèm nghe cô giãi bày chi hết.
Cha xứ vừa đi thì Như Huyền thấy dì Thu đang
đứng gần đó với lũ trẻ, ngoảnh mặt thật nhanh rồi lẳng lặng về nhà. Câu chuyện chẳng
mấy chốc đến tai dì Nương với tội đồ: “em Huyền mới giai đoạn học viện mà dám
to tiếng cãi lại cha xứ”.
Lúc đó trời vừa tạnh mưa, dì Nương cũng không
còn thời gian quan tâm đến chuyện gì nữa, liền bảo hai chị em Huyền và Trân ra
xem ruộng lúa nhà mình có bị ngập không. Không còn cơ hội cho sự dùng dằng
trước cái nhìn của dì Thu, được đà cô chạy lướt thật nhanh qua khu rừng Bạch
đàn. Từ bìa rừng bên này, cô đã nghe rõ tiếng í ới của bà con đang vội vã cứu
lúa, ai nấy cầm liềm khoắng đại, cố cứu lấy những nhành lúa đang bị dòng nước
ào ạt đổ về vùi lấp. Trời lại bắt đầu đổ mưa rào, những hạt mưa nặng trĩu đua
nhau nhào xuống, cùng những dòng nước từ trên rừng chảy xuống rầm rập làm mặt
suối không mấy chốc dâng cao lên tận gốc cây Đa, những bè lúa vàng non chất đầy
là những lo lắng, tiếc nuối xen lẫn niềm hy vọng nho nhỏ của bà con đang được
gắng sức chuyển lên bờ. Ruộng lúa của cộng đoàn không bị ngập vì ở trên cao,
đất cằn cỗi hơn nên hạt lúa không được căng mướt như những ruộng phía dưới,
nhưng bây giờ cũng bị đổ rạp bằng lì dưới đất, Như Huyền phải nâng chúng dậy và
cho cột các khóm lúa đứng tựa vào nhau. Nhìn những hạt lúa đang đương sức bỗng
ngã nhào một cách bất lực trông đến tội nghiệp. Một mùa lúa tưởng chừng bội thu
lại vội vã thu hoạch khi chưa đủ chín muồi. Một thoáng liên tưởng, cô thấy cánh
đồng truyền giáo mông lung quá, bao giờ lúa mới mọc lên, trổ bông cho người
nông dân được đi gặt lúa về.
Những mày lúa ram ráp dính đầy quần áo không
thể không làm cho Như Huyền khỏi ngứa ngáy khó chịu với bộ đồ cũng ướt sũng. Vừa
về đến nhà, thì chị Lan - mẹ của hai bé khuyết tật hớt hải chạy đến và la lớn.
-
“Dì
Nương ơi, cứu, cứu”….
Ngay lúc đó, chị Lan thấy Như Huyền đang ngơ
ngác liền kéo cô đi ngay, vừa đi chị vừa cố thúc thật nhanh và không ngừng lải
nhải: “nhanh lên dì, nó sắp chết rồi đấy”.
Nghe vậy, Như Huyền giật mình đứng lại và nói:
“thế thì phải mời cha xứ chứ”!.
Chẳng để cô phân bua, chị Lan hùng hục lôi đi
tiếp và nói: “Không, việc này dì làm được mà”.
Bảo Trân cũng chạy theo Như Huyền theo lệnh
của dì Nương, nhưng cô không thể theo kịp vì đường toàn đá lại dốc cao nữa,
đành thử cô cứ lẽo đẽo theo sau.
Khi Như Huyền đã mệt lử thì chị Lan dắt vào
một ngôi nhà đang có đám đông xúm lại vây bủa xung quanh, chẳng hiểu thế sự làm
sao nhưng cô cũng nhảy bổ xông vào và nghe tiếng dân nháo nhào kêu lên, dì tới
rồi kìa.
Vòng tròn vừa dãn ra, thì …. ôi trời ơi, đó là
một con bò mẹ đang say do ăn phải nhiều lá sắn tươi, miệng nó đang phì phò
những miếng bọt trắng lầy nhầy cả bãi ra đất, bụng thì căng trướng phình to như
cái trống mỏng đang muốn nổ bùng ra. Trong nháy mắt, cô lấy cây kim khâu đâm
đại vào bụng nó để khí độc thải ra, quả nhiên một lúc sau con bò tỉnh lại, ai
nấy đều vui mừng và nói: “các dì giỏi lắm việc gì cũng biết làm, hơn cả bác sĩ
thú y”.
Bảo Trân vừa chạy tới thì cũng là lúc Như
Huyền cuốc bộ quay về, nhưng sự kiện vừa rồi làm cô quên cả mệt mỏi, liền đem
chuyện khoe với dì Thu đang đứng chờ ở cổng. Dì Nương cũng từ trong nhà chạy ra
xem chuyện gì mới xảy ra, thì dì Thu đã chặn ngang và nói:
-
“Chẳng
có chuyện gì đâu dì ạ, chẳng qua là Chúa thương mấy kẻ khù khờ, nên cho Như
Huyền cơ hội thôi”.
Nghe thế, dì Nương nhìn Như Huyền ra vẻ phân
bua là dì Thu không có ý xấu đâu, nên Như Huyền cũng không phản ứng lại mà lẳng
lặng rút lui. Ý nghĩ về những người dân tộc lúc nãy vẫn còn xoay tít trong tâm
trí Như Huyền, họ rất kính trọng, tín nhiệm và biết ơn các dì, những ngày khác
họ vui vẻ làm việc cho nhà dì mà không kể công, nhưng sao họ lại không chịu
theo đạo Thiên Chúa.
Chương 10. Một sự thật
Bầu trời chiều nay trông sáng hẳn, những đám
mây trắng lãng đãng uốn lượn như những tấm voan mỏng phất phới bay trên bầu
trời. Như Huyền thấy mình như muốn hòa tan trong cái mỏng manh của làn mây để
được nhỏ bé mãi, và khi làn mây bay đi thì nó cũng tan biến trong bầu trời
thanh cao. Ngày chủ nhật hôm nay cô được sống cùng các gia đình dân tộc, họ
thật chất phác và thật thà, dù là những lương dân nhưng hình ảnh các dì đã chiếm
ngự trong tâm trí họ từ bao giờ, rất gần gũi, thân quen như người nhà của họ.
Nhưng từ tâm trí đến thực tại quả là xa vời, câu hỏi mà Như Huyền thắc mắc lâu
nay đã được giải đáp qua câu nói mà cô được nghe: nếu chúng con mà theo đạo
Công Giáo của các dì là sẽ bị cắt viện trợ ngay.
Quả thực miếng cơm manh áo vẫn là mối ưu tư
hàng đầu của họ, có cách gì giải gỡ không nhỉ, đang mải cuốn theo dòng suy
nghĩ, bất chợt cô nhìn thấy Phi Hòa đang đi đi lại lại, hai tay cất gọn vào túi
như đang chờ ai đó. Rồi thật nhanh, cô leo ngay lên cây Mận phủ đầy lá, thấy sự
việc qua mắt được anh, cô phóng tầm nhìn theo hướng Phi Hòa đang đi tới. Oa, đó
chính là dì Trúc Nương, dì đang đi tới gốc cây Mận, nơi cô đang ẩn nấp. Chuyện
gì sắp xảy ra đây, sao hai người lại biết nhau?
-
“Cuộc
sống của anh kỳ này thế nào rồi, hình như anh chuyển qua nghề buôn gỗ rồi hả”?.
Dì Trúc Nương lên tiếng hỏi trước.
-
“Vâng.
Con cũng khấm khá hơn nhờ công việc ấy, nhưng đời sống vẫn tẻ nhạt như trước
đây thôi”.
“Như trước đây”, Như Huyền thở nhẹ theo nhịp
điệu của lá cây để quan sát xem diễn tiến tình thế, họ đã biết nhau lâu rồi?
“Bây giờ anh vẫn ở không vậy à, con người sống
phải có mối tương quan chứ”. Sau đó dì Nương chỉ tay về phía nhà Mồ Côi và nheo
mày nói tiếp: “bây giờ vào thăm con gái tí chứ, một năm rồi đó! Mặc dù được
chăm sóc đầy đủ nhưng bé Thiên Nga vẫn luôn cần anh lắm!”
“Con gái !”, Như Huyền buông miệng kêu lên,
cùng lúc cành Mận khô vừa rớt xuống. Cả hai người cùng nhìn nhanh lên phía
trên, nơi phát ra tiếng nói. Như Huyền leo thật nhanh xuống dưới đất, choáng váng
với sự phát hiện này. Rồi quên cả sự hiện diện của dì Trúc Nương, cô quay lại nhìn
Phi Hòa một cách khó chịu và nói: “ anh là người giả dối!”.
Phi Hòa thanh minh một cách khẳng khái: “Sự
việc không như Dì nghĩ đâu!” Nhưng Như Huyền không chịu nghe giải thích, rồi theo
đường mòn bỏ chạy về cộng đoàn.
Những ngày sau đó, dì Nương thấy Như Huyền có
những biểu hiện khác hẳn, cô lầm lũi làm việc trong im lặng đến khó hiểu! Với
kinh nghiệm của người đầu bạc, dì cũng không tra khảo hay đặt vấn đề gì trực
tiếp tới Như Huyền, dì chỉ lẳng lặng quan sát và thầm cầu nguyện cho cô được ơn
Chúa soi sáng. Rồi một ngày Như Huyền chủ động tới gặp dì Nương.
Ngồi trong phòng của dì, cô nhìn thấy những
tấm gỗ ốp vào tường thật đơn giản như phòng của cô và các cháu khuyết tật, không
gì khác biệt, ưu tiên, ưu đãi mà toát ra một sự hòa đồng, đơn sơ, thanh thoát. Bất
chợt Như Huyền cảm thấy bàn tay mát lạnh đặt lên vai mình, cô khẽ rung rung lên
niềm cảm xúc thật khó tả. Qua tấm gương gài trên tường, cô nhìn thấy dì Nương
đang cười, một nụ cười nho nhỏ như đang chờ đợi, khích lệ cô cam đảm nói lên
nỗi lòng của mình.
Bắt đầu từ vụ tai nạn ở cầu Trung Hà, cô đã
biết ơn anh- một con người tốt bụng, thân thiện và khoáng đạt. Anh đã ngỏ lời
muốn cô chuyển hướng ơn gọi, và trong khi cô cũng muốn ngả theo anh ấy, thì
chính Chúa - qua tâm thư và di ngôn sống của mẹ làm cho cô bừng tỉnh nhận ra ơn
gọi đích thực của mình. Sau những ngày tháng tĩnh tâm tại nhà Mẹ Vũng Tàu, cô
muốn đến một vùng truyền giáo để dấn thân phục vụ cho Giáo Hội Chúa, thì trớ
trêu thay, cô gặp lại Phi Hòa trong bộ dạng của con người buồn chán và ích kỷ.
Một lần nữa cô khẳng định ơn gọi vững chắc mình đang đi để từ chối mọi chọn lựa
khác. Cô mong anh bỏ tính cứng ngắc để trở nên con người tốt, với những hy vọng
nhen nhúm mà cô đã thấy gần đây, nhưng không ngờ anh đã lừa dối cô suốt thời
gian qua, anh đã có gia đình, đã có một đứa con gái… Như Huyền đã nói hết với dì Trúc Nương, người
cô tin cậy như người mẹ thứ hai của mình. Lúc này đây cô thấy mình bị dao động
biết bao, trái tim yếu ớt của cô không đủ sức chịu đựng những chấn động mạnh kể
từ ngày mẹ cô vĩnh viễn ra đi, một con chim non bị lạc mẹ khi mải đi kiếm mồi,
hay một nhành lá Bạch Đàn rơi cũng đủ làm cô suy nghĩ về cuộc đời con người.
Để cho Như Huyền bình tâm lại trong giây lát,
dì Trúc Nương mỉm cười nhìn Như Huyền và nắm đôi tay đang run run như trong tòa
thẩm phán thành ngôi tòa của bình an. Nhìn sâu trong hốc mắt và từng vết nhăn
trên khuôn mặt dì Nương như ngôn ngữ đang biến đổi theo từng trạng thái của
giọng nói nơi miệng dì thốt ra. Đời tu luôn có những cám dỗ đưa đẩy những người
con riêng của Chúa lên bờ hay xuống vực, nó như con sóng biển trào lên lại ập
xuống. Khi đi trên những thử thách ấy, luôn có bóng dáng của một Giêsu đang vỗ
tay cổ vũ cho con cố gắng chiến đấu, để khi cơn thử thách qua rồi, con sẽ thấy
nghĩa tình của con với Ngài thật sâu đậm biết bao, lúc đó tâm hồn con như ngôi
nhà chờ, sẵn sàng những cơn sóng mạnh hơn có thể ập tới.
“Khi kể về những đau khổ của mình cho người
khác nghe, con cũng sẽ được nghe kể lại đau khổ của người khác còn gay cấn hơn
mình cả trăm lần. Bởi vậy, nơi Phi Hòa - anh ấy không như con nghĩ đâu. Đúng là
anh ấy đã có một gia đình, nhưng người vợ ấy cũng đi làm gái nên vợ chồng lục
đục luôn. Sau khi sinh Thiên Nga được ba tháng thì cô ấy chết vì một căn bệnh
lạ. Vợ mất, con bị mù, người cha bệnh hoạn nay đây mai đó nên đã dồn anh ấy vào
đường cùng. Nói chung, Phi Hòa cũng cục cằn, chán đời, song trong anh không
phải không có điểm gì tốt, đừng vội nhận định người khác một cách dễ dàng như
thế con ạ. Mình gieo hạt giống lời Chúa ở mọi loại đất, không kén chọn, vì ngày
xưa Chúa Giêsu cũng như vậy mà”.
“Về phần con, cũng nên hạn chế gặp mặt trong
thời gian này, cứ cầu nguyện với Chúa là được rồi”. Từng lời dì Nương nói như
thấm vào từng mạch máu của Như Huyền, cô lặng im và đón nhận những lời dạy bảo
ấy trong thái độ tin tưởng và biết ơn Dì.
Bước ra khỏi phòng dì Nương, Như Huyền giật
nảy mình vì sự xuất hiện của dì Thu. Tự nhiên cô lại không đủ can đảm để đối
diện một sự thật tế nhị ngay lúc này, cô muốn chuyện này càng ít người biết
càng tốt. Trong lúc Như Huyền cúi gầm mặt xuống để tránh ánh mắt dì phóng lại
thì một bé khuyết tật liền chạy tới, xin dì lại chơi với chúng nó.
Chương 11. Khách không mời lại gặp
Mỗi người một cuộc đời, mỗi cuộc đời là một
câu chuyện. Thời gian này Như Huyền không ra ngoài. Hôm nay chỉ có chị Lan cùng
các em khuyết tật ở nhà với cô. Đứng ở sân nhà cô cũng nhìn thấy mồn một những
rặng cây cổ thụ bên rừng đối diện đang phì phò thổi từng cơn gió cho thế giới
thiên nhiên rộng lớn ngút tầm mắt này. Một cánh rừng bạt ngàn, niềm tự hào của
dân làng từ ngàn đời, bởi chúng được gọi là buồng phổi của tỉnh lị. Nhưng nay
đang lồ lộ những vết loang lổ đỏ quạnh, mầu đá xám xịt của những bãi đất trống,
kế bên đó là những đường rãnh bị sói mòn sau mỗi cơn mưa. Các loại cát đá theo
dòng nước từ trên cao dồn xuống các ruộng lúa ven rừng, tạo thành các mô đất
sạn. Thiên nhiên là thế.
Ngay lúc ấy, Như Huyền ngước sang nhìn chị
Lan. Dòng nước nào đã hằn in trên khuôn mặt một cô gái chỉ hơn ba mươi tuổi đầy
những đường gân xanh rối rắm. Gò má bóng áng làm phơi những đường xương gân
guốc nhấp nhô trên khuôn mặt. Nước mắt bao giờ chảy cho hết khi đêm nào cũng
nhìn thấy hai đứa con khuyết tật, không một lần mở miệng gọi tên mẹ bao giờ. Bé
Thương bại liệt thể múa vờn, bé Ngân chậm phát triển trí tuệ loại nặng và khó
khăn vận động. Bao giờ chị có thể được dựa trên một bờ vai vững chãi để thỏa
niềm tâm sự, bởi người chồng đã ra đi vĩnh viễn khi lái xe máy trong cơn say
rượu. Khi được các dì đón hai đứa con vào mái ấm và nhất là tình thương nơi đây
đã giúp chị lấy lại cuộc sống, thỉnh thoảng chị vào giúp các công việc cho các
dì. Mấy hôm nay, chị ấy ít nói chuyện với cô, chắc chị ấy đang có điều gì đó
trong lòng chưa giải tỏa được.
Niềm vui của như Huyền lúc này là được ngắm
các em bé bại liệt trên giường, nhìn chúng trong sáng và thánh thiện quá, chẳng
chút vương vấn lụy buồn trên khuôn mặt. Nơi chiếc giường là chốn ăn, ngủ, là
tất cả của các bé. Thỉnh thoảng có đứa gào lên khóc hay cười khúc khích một
mình, nhưng đều hàm chứa sự đơn sơ của tuổi thơ.
Ngay lúc ấy, ở phía cổng, có tiếng ai gọi cô.
Cô ngẩng đầu lên. Bé An đao chạy tới và nói: “ó ách, ó ách”. Cô nghĩ chắc có ai
đó đến thăm nên bước ra cổng. Vừa nhìn thấy khách, Như Huyền cảm thấy như có
một hòn than di chuyển khắp cơ thể. Người cô nóng bừng lên, cô không biết làm
gì với cuộc chạm chán bất ngờ này. Cô muốn xin lỗi anh về hành vi hôm trước của
mình, nhưng kìa anh thật lạnh lùng và bình thản một cách vô tư, mãi sau mới
nhếch môi lên nói một câu: “chào Dì Như Huyền, tôi muốn vào thăm con gái của
tôi, được chứ!”
Rồi không để Như Huyền phản ứng, anh đi thẳng
vào trong nhà như một nơi quen thuộc. Lúc này, trong người cô lại biến sang cảm
giác khác, cảm giác nóng của sự bất ngờ chuyển dần sang sự khao khát Phi Hòa
trở nên người Kitô hữu. Ý nghĩ này vừa nhen nhúm gợi ra, cô mỉm cười và nghĩ,
biết đâu mình chinh phục được anh ấy.
Giữa bầu trời trong xanh và cao vút, những đám
mây trắng xóa tựa như bông, lặng lẽ trôi trên nền trời rộng mênh mông. Bất ngờ,
một cơn gió ở đâu thổi về, những đám lá Sấu rơi đầy sân. Gió mạnh thốc cả lá
cây và bụi lên cao rồi cuộn tròn thả vèo xuống. Với kinh nghiệm bao năm, cô mau
chóng nhận ra đó là gió mùa Đông Bắc đang tràn về. Nhìn sang Phi Hòa, anh vẫn
ngồi im trên chiếc ghế gỗ đặc biệt dành cho các cháu khuyết tật. Còn đám trẻ
thì ngẩng đầu lên như muốn nói: dì Huyền ơi, mùa đông đang đến rồi!
Trong lúc lo mặc thêm quần áo cho các cháu,
Như Huyền ngửi thấy mùi thối nồng nặc bay lên, mùi phân của bé Nhân bị não úng
thủy. Cô vội tức tốc đưa bé ra phòng tắm để rửa ráy, vì nếu không nhanh, bé sẽ
móc ra và bôi khắp giường, bởi một tay bé còn cử động rất linh hoạt. Đang lúc
tắm rửa cho cháu, thì bé Ngà bị hội chứng teo não, hốt hoảng chạy tới ôm chầm
lấy Như Huyền và hắt hơi mấy cái, sau đó là một chuỗi ho không thành tiếng,
người em tím lại. “Cảm lạnh! Cảm lạnh rồi!” Như Huyền một lúc phải lo cho hai
em trong tình thế khó xử. Như Huyền muốn chạy xuống bếp gọi chị Lan lên, nhưng
lúc này chắc chị đang bận lắm. Thế rồi, cô quay sang Phi Hòa và nói trống: “Người
hay khúc củi mà ngồi đực ra đó vậy?”
Biết đụng đến mình, anh làm ra vẻ vội chạy tới
và nói: “tôi có thể làm gì được?”
“Lấy gừng lên đây đánh cảm cho cháu”. Như
Huyền chỉ tay về phía nhà bếp đề Phi Hòa xuống lấy.
Không phải chờ lâu, anh đem cả rổ gừng lên mà
không cần phải hỏi qua chị Lan. Thấy vậy, Như Huyền bực lên quát: “trời ơi,
phải giã ra mới đánh cảm được chứ!”
Chỉ sau một lát anh đem cả cối gừng mới giã
còn tươi nguyên lên nhà và nói: “còn thiếu gì nữa không?”
“Xuống bếp bảo chị Lan cho mấy giọt rượu trắng
vào”.
Bé Thiên Nga mù không nghịch nữa, nó nằm yên
nghe ngóng sự xuất hiện của giọng nói mới. Từ nãy đến giờ, nó rướn người chồm
dậy, dựa vào cột giường vững chắc và nghếch mặt cùng nheo nheo cái mũi về phía
tiếng nói ấy. Sau một lúc, bé Ngà hồi phục lại, người bé ấm dần lên và bắt đầu
cười. Như Huyền cũng cảm thấy nhẹ người hơn. Bởi em này rất kém sự đề kháng,
may thay lần này bé bị nhẹ, chứ không phải lên bệnh viện như lần trước. Vừa xoa
ấm người cho bé, Như Huyền vừa nghĩ về Phi Hòa, trông anh thật buồn cười về
những cử chỉ lúc nãy, chẳng lẽ cô lại cười ư? Cô tóm lại, con người ai cũng cần
sự quan tâm của nhau. Nghĩ thì vậy, nhưng sự im lặng vẫn bao trùm khắp gian
phòng sau mấy câu hỏi ban nãy mà thôi.
Dọn dẹp giường chiếu xong thì cũng đến giờ cơm
trưa của các bé. Như Huyền cầm bát cơm nát lại cho Phi Hòa và nói: “anh bón cơm
cho bé Thiên Nga đi”.
Không phản ứng, anh tự đứng lên lấy bát cháo
đặc bón cho bé Ngọc. Bé này bị liệt toàn thân, chỉ có thể cử động từ khuỷu tay
trở xuống, lại thêm chứng đầy lưỡi, rất khó khăn khi ăn uống. Vừa thấy anh đứng
bên giường, bé liền đảo mắt nhìn sang dì Như Huyền đang đứng đối diện, đôi đồng
tử long lanh đưa đi đưa lại như lời tha thiết xin dì cứu nguy. Thìa cơm vừa đưa
vào miệng tức thì bị đẩy ra kèm thêm dòng nước dãi chảy sang hai khóe miệng.
Không nao núng, Phi Hòa bón lần nữa nhưng vẫn bị cái lưỡi kia đẩy hết phần cháo
ra ngoài. Sự kiên trì vẫn còn, anh cố gắng giữ bé hơi nghiêng ra sau một chút
rồi xúc miếng cháo khác cho vào miệng bé. Lúc này mặt anh căng thẳng cực độ,
những giọt mồ hôi lấm chấm của đầu mùa đông cũng phải ló ra. Anh xoay sở đủ
cách mà bé vẫn chưa được miếng nào vào miệng, đổi lại là cả bát nước dãi mà anh
đã gạt từ miệng bé chảy ra từ lúc nãy đến giờ. Bé thấy đói, nên cố gắng ngước
hẳn đầu sang nhìn Như Huyền, nơi hai khóe mắt đọng chút nước sợ hãi chảy ra.
Vừa lúc đó, chị Lan từ dưới bếp đi lên, với
thói quen đưa tiếng đi trước người, nên chưa thấy chị đâu mà âm thanh đã nghe
rõ mồn một: “rau nhà mình mọc mau thật, chắc ăn không hết đâu dì Huyền ạ”.
Bước chân vào cửa chị thấy bé đầy lưỡi đang
gồng mình một cách tuyệt vọng bên người lạ mặt, chị cười và nói: “bé đó khó ăn
lắm bố Nga ạ, hay anh qua bón cho con gái đi. Bé này để chị bón cho”.
Cả Như Huyền cũng bảo anh qua bón cơm cho nó,
nhưng anh không nghĩ đó là con mình, anh không thể đón nhận việc nó bị mù vĩnh
viễn, cả đời không nhìn thấy mặt bố mẹ. Anh cố tình gửi nó ở đây để quên đi sự
mặc cảm của mình, để không ai biết nó là con anh. Số phận trớ trêu làm cho anh
lại quay về chốn này. Lòng vòng suy nghĩ trong những vấn nạn rối bùng beng, anh
nhìn các bé khác đều được ăn no rồi, còn bé Nga. Ồ nó đang làm gi kia?, anh bắt
gặp nó đang ngồi ngoan trên giường như chờ đợi điều gì đó, nó đang lắng nghe cảm
xúc của anh chăng.
Xác định có tiếng người bước tới giường mình,
Thiên Nga mù liền đứng lên nhún nhảy và cười vì sắp được ăn. Nó ngoan ngoãn há
miệng thật to và ăn ngấu nghiến như thể bị bỏ đói lâu ngày. Được khoảng ba
miếng, nó ăn chậm lại và ngước mặt lên nhìn anh, cái mũi nhỏ bé di chuyển từ
mặt xuống cổ anh, cái tay nhỏ tí đang sờ soạng khuôn mặt anh. Một lúc sau, bé
Nga không chịu ăn nữa, biết mình đang ngồi trong lòng anh, nó đứng lên nhảy một
cách vui vẻ, rồi trèo qua trèo lại trên thân người anh. Sau một cú nhào lộn, nó
đứng lại, quay mặt về phía anh cười khoái chí. Khó khăn lắm anh mới bón cho nó
một miếng khác. Nuốt nhanh miếng cháo, Thiên Nga lại nhảy tiếp, lúc thì nó quay
mặt vào anh, vịn vào vai để nhảy, lúc thì nó dựa lưng vào anh rồi bơi bơi trên
giường. Vật lộn với bé khá lâu mà vẫn không hết bát cháo. Anh bỏ bát cháo ra
ngoài và phát hiện nó đang buồn ngủ, gục người trên vai anh. Anh nhẹ nhàng bế
nó ra tư thế ngửa.
Ngồi đó Phi Hòa trầm mặc nhìn con gái ngủ, đôi
mắt nhắm tít lại đâu có giống mù. Lâu lắm rồi anh mới nhìn thấy một khuôn mặt
bình an, không vương chút u buồn sợ hãi hay tuyệt vọng nào cả. Anh bắt đầu chăm
chú quan sát nó, nhìn đôi môi nhỏ bé chúm chím cân đối bên cái khuôn mặt tròn
và trắng trẻo, hai má ửng hồng lên vì được anh ủ ấm. Lòng anh chợt dao động
niềm cảm xúc của một tình yêu phụ tử, anh đúng là một người bố, nhưng anh đã
không thừa nhận nó.Trái lại nó vẫn đón nhận anh bằng cả một tâm hồn sung sướng
của một đứa trẻ; hồn nhiên, nhảy nhót và tươi cười.
Lúc này Như Huyền và chị Lan đã làm vệ sinh
cho các cháu xong, Huyền nhìn thấy anh đang ôm thật chặt con gái của mình. Anh
ngồi đó, bất động cùng dáng ngủ của con, anh không quan tâm xung quanh đang xảy
ra những gì. Đầu anh hơi cúi xuống mặt con, nhưng Như Huyền vẫn nhìn thấy chơm
chớm dòng nước đẫm trên đôi mắt như thứ ngôn ngữ biết nói ấy. Như Huyền tỏ dấu
cho chị Lan ra ngoài để anh được yên tĩnh bên con gái của mình.
Chương 13. Những thử thách
Thời gian này dì Trúc Nương trở về nhà mẹ Vũng
Tàu để họp cùng Hội Dòng. Bảo Trân và Thu Thảo phải ở nhà cùng dì Kiều Thu để
chăm các cháu, riêng Như Huyền vẫn lên nhà thờ đều đặn vào các buổi tối. Càng
về giữa đông, những làn gió rét càng lạnh hơn, mặc dù Như Huyền đã mặc lớp áo
phao nhưng gió buốt như kim châm vẫn quấn vào da thịt khiến cô chảy cả nước
mắt. Nhiệt độ ngoài trời đã xuống 4 độ nên cô cảm thấy cái rét đang thấm vào cơ
thể. Đứng tập hát trong phòng, cô thấy đỡ lạnh hơn, nhưng những cơn gió nhí
nhảnh xuyên qua ô cửa sổ làm giọng cô khản đặc lại. Như Huyền bị ho liên tục trong
giờ tập hát, làm cô cũng mất tự tin và thấy khó khăn, dù ca đoàn đều là những
người cô quen biết.
Sau giờ tập hát, Như Huyền chuẩn bị cất sách
hát ra về thì có người phụ nữ đến gặp Như Huyền. Cô ấy lấy chồng dưới xuôi mới
lên nhưng quê gốc ở đây, cô ta muốn cho Như Huyền một ít tiền để mua thuốc,
nhưng Như Huyền từ chối và thanh minh: “ở nhà cháu cũng có thuốc rồi ạ”. Sau
một lúc nói chuyện, Như Huyền cám ơn và ra về.
Màn đêm của mùa đông thật vắng lặng bóng người
biết bao! Chỉ có tiếng cành cây xào xạc và tiếng rì rầm khô đanh của rừng cây
rụng lá. Nhưng về đêm Như Huyền vẫn nghe tiếng còi ô tô chở gỗ từ cánh rừng bạt
ngàn kia đang bị bào mòn từng ngày. Những đám lâm tặc không thể thấy sự đau đớn
của bầy nhà cây rừng cứ phải liên tiếp chia tay, sụt sùi héo úa trong sự tàn
phai của mùa đông. Con đường từ nhà thờ tới cộng đoàn chỉ chừng bảy phút, nhưng
hôm nay cô thấy mình đi chậm hơn. Đang quét con mắt từ cánh rừng bên kia trở về
thực tại, chợt cô thấy bóng hình một người đàn ông lớn tuổi. Đầu ông để tóc hơi
dài, chiếc áo khoác màu hung vàng lấm chấm những vệt nhựa đen. Tuy không nhìn
rõ mặt, nhưng vẫn vóc dáng ấy làm Như Huyền nhớ lại hình ảnh người đàn ông cười
trong đêm khi cô mới đến Vạn Thủy. Cô buột miệng gọi to: “Bác ơi, bác ơi bác”!
Nhưng hình như cơn gió đã hòa loãng giọng khàn
khàn của cô, làm nó không thể tới được người đàn ông kia. Như Huyền không rẽ về
lối cộng đoàn, nhưng theo lối người đàn ông đó mà đi. Càng nhìn, cô càng thấy
ông đáng thương biết bao. Đôi chân lúc này không còn thấy lạnh nữa, cô chạy
thật nhanh tới người đàn ông, nhưng đang khi cắm đầu chạy tới chỗ ngã ba đường,
cô không biết ông rẽ vào lối nào. Định thần một lúc, cô nhìn các ngõ hẻm ông có
thể vào, cô liền chạy tới từng ngõ ngách ấy mà tìm, nhưng đều vô vọng.
Bóng đèn lờ mờ bên đường đang đung đưa bởi mấy
cành lá chìa ra đường, phe phẩy, báo hiệu thời khắc đã trễ. Như Huyền đang rẽ
qua con đường quen thuộc để về nhà, thì kìa một bóng người làm cô giật mình
hoảng sợ. Một anh thanh niên cầm ô giữa đêm đang đuổi theo cô và không ngừng
nhặt những hòn đá mà ném. Ba chân bốn cẳng cuống quít chạy về, càng chạy cô càng
thấy người thanh niên đó gần đến mình, và khi người thanh niên vượt lên trước
Như Huyền, đối diện, anh ta lè lưỡi cười sặc sụa, phô ra hàm răng đầy những bợn
và hơi thở hôi hám khó chịu hơn cả các cháu khuyết tật.
Rồi, một tiếng quát ở đâu vọng lại làm anh đó
đứng yên: “này thằng kia, mày không được bắt nạt dì Huyền”. Bà Nhân trong ca
đoàn quay lại phía Như Huyền nói: “thằng ấy bị điên đó dì, nó cầm ô cả ngày đêm
trời nắng cũng như mưa, nó hay bắt nạt những người nơi khác đến lắm, nhưng sao
dì đi đâu giữa đêm hôm thế này, đây đâu phải lối về cộng đoàn?”
Như Huyền vẫn còn hoảng sợ không nói được gì.
Bà Nhân nói tiếp: “thôi để con đưa dì về nhà nhé”.
Dì Thu đi đi lại lại bên cửa cổng và thắc mắc
tại sao Như Huyền giờ này chưa về. Vừa lúc đó Như Huyền về tới, bà Nhân kể cho
dì Thu hết mọi chuyện cũng như công phúc của bà đã cứu dì Như Huyền. Sau khi
cám ơn và chào bà Nhân, dì Thu quay sang hỏi Như Huyền: “Em đi đâu giữa đêm
khuya vậy? Nghe chị Lan nói hôm nay Phi
Hòa cũng vào đây chơi rồi mà?” Hỏi đến đây, Như Huyền giật mình không biết phải
trả lời làm sao, vì quả thật lúc nãy cô cũng chạy theo một người đàn ông, giải
thích làm sao được khi chính mình cũng không biết ông ta là ai. Nghĩ rồi cô xin
lỗi vì sự lo lắng của dì Thu khi phải đứng đợi cô về giữa đêm đông giá buốt
này.
Cả tuần sau đó, ngày nào Phi Hòa cũng vào bón
cơm cho các em ở đây, bón cho con gái xong, anh quay sang tập bón cho những đứa
khác. Trước sự chứng kiến của dì Thu, anh tỏ ra một người thành thạo và quan
tâm giúp các dì. Thấy dao cùn, anh tự đem ra mài cho sắc, những cành cây chìa
ra vô tổ chức ở sân, anh chặt tỉa cho quang đãng. Dì Thu thay mặt dì Nương lo
lắng các công việc bên ngoài, còn Như Huyền, Thu Thảo và Bảo Trân chăm sóc các
cháu. Thỉnh thoảng dì Thu có vào quan sát nhưng không thấy có vấn đề gì nghi
hoặc cả, dì bắt đầu tin tưởng ở Phi Hòa và nhờ anh làm những việc cần thiết.
Sau giờ cơm tối, dì Thu gặp ba em học viện để
nhắc nhở mấy điều: dì nhấn mạnh đến việc tuân giữ ba lời khuyên phúc âm; vâng
lời, khó nghèo và khiết tịnh. “Đã đi tu dâng mình cho Chúa thì không vương vấn
mối tình xác thịt cũng như không quyến luyến của cải trần gian. Nếu ai cho cái
gì thì phải thật thà nói cho các vị phụ trách biết, còn nếu giấu giếm thì coi
như kẻ ăn cắp. Các em cần xét mình để thực hiện đúng những lời đã tuyên khấn”.
Bữa cơm hôm sau, dì Thu bày ra món trứng ốp lá
mơ và nói: “ba em ăn món này đi cho đỡ ho, chị áp chảo bằng lá chuối không chút
dầu mỡ nào, ăn vào mấy ngày sẽ khỏi, không phải nhận tiền người khác mua thêm
thuốc đâu”. Ba chị em đều trố mắt nhìn không hiểu dì Thu muốn nói gì. Thấy ngơ
ngác chưa hiểu, dì Thu nói tiếp: “chẳng phải có người lén lút nhận tiền của
người khác đó sao, mấy chuyện đó chị biết hết, chỉ là cần sự tự giác mỗi người
mà thôi, phải không…., phải không …. Như Huyền”. Thấy dì Thu nói tên mình, cô
càng ngơ ngác không hiểu. Bảo Trân ghé tai nói nhỏ: “Dì Thu muốn hỏi chị có
nhận tiền của ai không đó, chị thử nhớ lại xem”.
-Như Huyền gắng nhớ lại những sự kiện gần đây,
nhưng cô không thấy có điều gì nên nói: “Em chưa bao giờ nhận của ai cái gì mà
không nói cho các Dì biết cả!”
Dì Thu biết mình nắm chắc phần đúng trong tay
nên nói rõ, không úp mở: “Tuần trước có một bà dưới xuôi lên đây chơi, có gửi
cho Như Huyền ít tiền. Các em biết, tiền riêng không được cầm qua đêm, thế mà
nay đã hơn một tuần rồi, chị thấy như vậy không được”.
Nghe đến đây, Như Huyền vội thanh minh: “à con
nhớ rồi, họ có ngỏ ý cho con tiền, nhưng con không nhận đâu ạ”.
-
“Em
có nhận!”
-
“Không
có đâu ạ!”
Bảo Trân giật tay Như Huyền nói: “chị thử lên
kiểm tra cái túi xách mà chị hay mang lên nhà thờ là biết ngay à. Có thể chị
quên chăng!”
Lần lượt Như Huyền lấy từ trong đó ra những
cuốn sách và vài thứ cần thiết, tờ Polime 200.000 cũng từ đó đi ra. Dì Thu thấy
vậy liền nói: “Chẳng phải có tiền trong giỏ xách của em sao, nó từ đâu mà tới”.
Như Huyền vội giải thích: “con cũng không biết
nữa!”
“Dì biết bà ấy quảng đại lắm, đã cho thì phải
cho nhiều. Em cần thì cứ giữ số tiền này lại cũng được, nhưng phải cho các dì
biết chứ. Dì Nương đi vắng hay ở nhà thì cũng phải sống trung thực và giữ đúng
những lời Chúa đã dạy”.
Dù giải thích nữa thì cũng đến ngõ cụt, và
càng vòng vo thì càng rối, nên Như Huyền xin lỗi dì Thu và gửi lại số tiền ấy.
Cô nghĩ mình cũng cần phải kiểm điểm lại đời sống. Có những câu chuyện chưa thể
hiểu hết chi tiết trong đó, song lúc này dì Thu dạy đúng, dì cũng muốn các em
theo gót Chúa Giêsu trên con đường hoàn thiện mà thôi.
Từ bữa đó, Như Huyền thấy chị Lan hay nói
chuyện với Dì Thu. Nhưng Bảo Trân với cô là bạn thân cùng chia sẻ những niềm
vui và khó khăn, những gì nằm trong giới hạn con người, thì cô chia sẻ với
chính Chúa Giêsu. Đời tu phải có sóng gió chứ, cô nhớ lại lời cha già Hào ở Vạn
Thủy và không ngớt lấy chuỗi tràng hạt ra để thỏ thẻ với Mẹ Maria. Chẳng phải
khi đứng trước biển đông bao la ở Vũng Tàu, cô đã thầm ước mình trở nên:
“Như biển chẳng chút vấn vương
Rì rào tiếng hát yêu thương cho đời
Mẹ ơi, ước nguyện khôn vơi
Cùng Mẹ con lướt sóng đời trần gian”.
Bởi vậy, một chút hiểu lầm có xá chi, khi mà
biển đông kia hàng ngày nhận bao tạp chất từ các trận cuồng phong đưa về, nó
vẫn vui hát khúc hát của bản chất. Cô muốn, và còn muốn ôm nhiều hơn nữa những
khó khăn hiểu lầm để được nên giống Chúa Kitô.
Chương 13. Lem luốc phận người
Mùa đông về, những rặng cây Soan, Bạch đàn, Sấu
đang trơ mình bên những bộ xương khẳng khiu. Chỉ một cơn gió nhẹ cũng có thể
đưa những chiếc lá còn sót lại trên cây đi một nơi rất xa. Dì Nương đã trở về cộng
đoàn trong niềm vui rạng rỡ của đám khuyết tật. Mặc cho những lớp sương muối
phủ đặc, chúng vẫn phóng cả chiếc xe lăn ra cửa để đón. Mấy em liệt thì đập
phành phạch trên giường hay cười nắc nẻ khi nghe tiếng dì Nương chào chúng,
riêng Thiên Nga thì nhảy ưỡn cả người lên, không cần sự đề phòng có thể ngã
xuống, vì nó biết đang có người đứng gần đó. Đứa nào cũng có quà, tùy theo nhu
cầu có thể sử dụng được. Chị Lan được dì Nương đồng ý cho về nhà thời gian dài
để chuẩn bị gieo mạ và cấy hái cho vụ lúa đông xuân sắp tới.
Hôm nay Phi Hòa không vào Mái ấm, anh dành
thời gian đi thăm dò những mảnh đất có thể mua để đầu tư trồng cây ăn trái. Anh
bỏ nghề chặt cây và chở gỗ cho các lái buôn, điều này làm đám người kia tức lắm
vì bỗng dưng mối làm ăn bị khựng lại.
Ngang qua lối nhà thờ, anh rẽ sang lối đền Đức
Mẹ. Những phiến đá cao, nhấp nhô nhiều kiểu được xếp thành hàng rào, vào bên
trong nữa thì đó là một vòm tròn bằng đá ong được bài trí cách khéo léo để mọi
người có thể đứng đọc kinh mà không bị ướt. Tượng Đức Mẹ hiền từ xinh đẹp thật
nhỏ bé, cũng đứng trên một bệ đá được mài nhẵn bóng. Thấy Mẹ cười, anh cũng
đứng lại thầm thĩ vài câu kinh đơn giản mà anh đã học được gần đây khi các dì
cho các cháu đọc trước khi ngủ trưa. Nhớ sao đọc vậy, chứ anh cũng không nhớ đó
là kinh gì nữa.
Xa xa, anh nghe loáng thoáng tiếng khóc thút
thít, cường độ mỗi lúc to nhỏ khác nhau. Anh đứng yên để xác định hướng. Bước
ra ngoài đền để nhìn ngó, nhưng chung quanh không thấy ai. Anh lại trở vào
trong, và kìa ngay sau tượng đức Mẹ, anh phát hiện có lối đi thông sang khu rừng,
nhưng đám dương xỉ mọc tua tủa che kín lối. Vui mừng vì sự phát hiện mới của
mình, anh tiếp tục men theo lối nhỏ đó. Đây không phải là đường cùng vì không
tối. Một chút ánh sáng làm cho anh biết con đường này không dài lắm. Đi một
quãng nữa, anh thấy bầu trời qua dãy phiến đá cao vút, nhưng kìa một vực thẳm
đang nhìn anh.
Giật mình lùi lại, thì ngay phía sau ấy, trên
một phiến đá đầy những đốm rêu xanh và lá cây rụng lâu ngày nằm rải rác xung
quanh. Một bé gái khoảng 8 tuổi đang nằm co quắp. Không khí lạnh như dao sắc đã
xâm chiếm toàn con người em, thân mình em chỉ có một chiếc áo thung cuộn tròn
lên đến nách, còn phần dưới thì hoàn toàn trần truồng. Anh vội vàng cởi áo
khoác của mình mà mặc cho em, sự đụng chạm của anh làm em giật mình mở mắt.
Cùng lúc đó, anh phát hiện phần háng của em có những vệt máu, phần đùi của em
thâm tím. Đây là một vụ xâm hại tình dục trẻ em, nạn nhân lại chính là một bé
khuyết tật, anh nhận ra nó bị hội chứng đao, vì giống bé ở nhà Mồ côi. Nhưng
người đàn ông kia là ai, bây giờ sao anh biết được.
Thấy có người lạ, em bé bật khóc và gọi mẹ, anh
liền gọi điện cho dì Nương tới. Trong lúc ấy, anh rửa mặt cho bé, ôm chặt nó vào
lòng và dỗ dành. Tự nhiên giữa trái tim nhiều ngăn của mình, anh thấy ngôi nhà
tình thương mở rộng ra, xót xa cho một con người không được tôn trọng đúng
nghĩa. Lời nói của Như Huyền thuở nào anh chẳng muốn nghe, nay tự quay về ào
ào. Con người được sáng tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa ( x.St 1, 26-27), đó
là lý do duy nhất mà chúng ta phải tôn trọng nhau. Dầu rằng theo văn hóa Á
Đông, một người có phẩm cách là có tài năng và đức độ. Thế nhưng ai cũng biết
rằng mọi người không có điểm xuất phát bằng nhau, thế mà mỗi người lại cứ phải
chạy đua trên cùng một đường đua, với những chuẩn mực của mức đến như nhau. Thế
nên nhiều người bị thiệt thòi vì ngã vị của họ không được tôn trọng xứng đáng.
Một lần nào đó, hình như ở Bến đá kép, khi anh chê hai bé theo Như Huyền, thì
cô ấy đã nói: “Chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy
nói cho anh em biết: các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng
nhan cha Thầy, Đấng ngự trên trời”( Mt 18, 10). Càng nghĩ lại, anh càng
thấy thương các bé khuyết tật, hay những con người nghèo khổ, ít tiếng nói đang
bị bao người như Phi Hòa ngày xưa bào mòn sự tôn trọng bằng những cái nhìn rẻ
rúng, khinh khỉnh trong lời ăn tiếng nói và loại hẳn ra khỏi đời sống xã hội.
Anh thấy ý thức con người cũng đang bị tuột dốc như những mô đất dưới cánh đồng
kia, chúng càng to hơn sau mỗi cơn mưa, vì không có cây nào ngăn dòng chảy ấy
lại.
Đang miên man theo dòng suy nghĩ, nên dì Nương
tới lúc nào anh cũng không biết. Đứa trẻ được đưa về cộng đoàn tắm rửa ăn uống
đầy đủ, rồi sau khi báo với công an xã, ngày hôm sau đã có người đến nhận con về.
Họ cám ơn và hứa quyết tìm cho ra người đàn ông xấu xa đó để phạt tội.
Trong thời gian này, Phi Hòa đã tậu được thửa
đất nho nhỏ, anh đầu tư trồng bưởi và cam. Ngoài giờ chăm vườn anh tranh thủ
đến nhà các dì cho các bé ăn và giúp các dì sửa chữa những đồ dùng cần thiết.
Anh vui vẻ làm việc như thành viên của cộng đoàn. Ngày nào cũng vào thăm con
gái, và anh thấy nó lớn thật nhanh, không còn nằm bẹp trên giường, nó tự đứng
thẳng dậy không cần vịn vào đâu hết, rồi tập đi quanh nhà. Tối đến, anh đi học
lớp giáo lý dự tòng của dì Nương, và mong muốn được rửa tội vào dịp lễ Giáng
sinh sắp tới này. Cuộc đời anh với những niềm vui giản đơn nho nhỏ nhưng thật ý
nghĩa như chính mùa đông của đất trời này. Mùa của sự ấp ủ những hy vọng, để
ngày gần nhất đây, chị mùa xuân sẽ thổi bùng lên những nhành hoa của niềm vui
mới.
Chương 14. Thử thách và tai họa
Ánh sáng của đất trời thật yếu ớt, những tầng
mây xám xịt đổ xô tới làm cho cả khoảng trời thêm âm u. Đến giữa trưa thì một
cơn gió nổi lên thổi vù vù, dấu hiệu những cơn mưa dai dẳng sắp đến, khiến trời
đã lạnh lại càng buốt hơn. Như Huyền và Thu Thảo làm thêm những tấm nệm bằng
rơm dày hơn để lót dưới giường các cháu. Lúc đó dì Thu đi vào gọi cả hai chị em
lên phòng dì Nương gặp. Vẫn trong thái độ bình thản của con người đôn hậu, dì
Nương nhẹ nhàng mời hai em ngồi và bắt đầu ngỏ chuyện. Quay sang phía Thu Thảo,
dì nói: “qua tuần em chuẩn bị đồ để trở về nhà dòng nhé”.
“Thưa dì, con về nhà dòng để”......
“Về nhà mẹ để chuẩn bị tĩnh tâm cho ngày khấn
trọn đời sắp tới. Xin chúc mừng em”
Mắt Thu Thảo sáng lên niềm vui: “Oa, tạ ơn
Chúa vậy sang năm con sẽ được khấn trọn đời rồi!”.
Nói đoạn, Thu Thảo quay sang ra hiệu cho dì
Nương về Như Huyền.
Như Huyền có sứ vụ khác, à hay em xuống lớp
trông các cháu đi, dì có chuyện muốn nói riêng với Như Huyền.
Thu Thảo vâng dạ rồi đi xuống, nhưng vẫn thấp
thỏm xem chuyện gì sẽ xảy đến với Như Huyền.
Suy nghĩ một chút, dì Nương bắt đầu nói tiếp. “Như
Huyền à, khi nghe điều này, em hãy đón nhận nó như thánh ý Chúa để tâm hồn mình
đừng bị chi phối nhiều: Nhà dòng bảo em ở lại cộng đoàn phục vụ cho đến khi nào
có thông báo sau. Trong thời gian này em cố gắng kiểm điểm và sống tốt hơn ba
lời khấn mà em đã mạnh dạn tuyên hứa trước toàn thể Hội thánh. Dì có được nghe
dì Thu kể về câu chuyện của em trong thời gian dì đi vắng, song chuyện đã qua
thì để nó qua nhé. Đi tu thì cần sự trung thực lắm, dì tin em sẽ làm được.
Chuyện khấn trọn thì cũng tốt, nhưng khấn lần đầu thì đã là hoàn toàn thuộc về
Chúa rồi. Em nhớ kỹ điều này nhé”.
Buổi chiều dài lê thê đang nhá nhem vài gam
màu đen và xám cùng hòa quyện với nhau, đẩy đi những làn sương trắng xóa đang
phủ dày đặc trên nền trời mênh mông. Qua vệt sáng từ ánh điện chiếu ra, Như
Huyền thấy nơi bãi cỏ đang ướt đẫm ấy có nét yêu kiều và hấp dẫn riêng của nó.
Có phải cô thích ngắm nhìn thiên nhiên vạn vật nên thấy điều đó chăng. Ở giữa sự
tăm tối và mịt mù của đêm đông chừng như ảm đạm của sự lê thê chán chường vẫn
có những cảnh đẹp và huyền bí như vậy ư. Nên có phải, việc cô ở lại cộng đoàn
cũng là ý Chúa. Càng để ý, cô càng thấy mình giống hạt lúa mì. Bên cạnh những
thô ráp của lớp vỏ nhám bên ngoài là những khiếm khuyết bản thân, cô thấy mình
cần dậy lên một sức sống đang ủ ấp bên trong đó. Nơi đây hạt mầm được Chúa giữ
gìn để dù có vất trong đám tro tàn, nó vẫn cựa mình để ươm mầm sự sống.
Nhìn những cành cây trụi lá của mùa đông, ai
cũng thấy nó thật đáng thương, nhưng ẩn chứa bên trong đó là một sức sống tiềm
tàng để thời gian ngắn nữa thôi sẽ trổ những lộc non xanh tươi cho đất trời.
Như Huyền cũng thấy mình như vậy, nhưng mầm non kia là niềm vui nội tâm phải
được thể hiện nơi con người chan hòa vui vẻ, chứ không giấu kín trong những bộ
áo bạc màu nhăn nhó của những cành cây. Càng khó khăn thì sự dấn thân mới ý
nghĩa.
Với những công việc chẳng có gì mới so với một
nữ tu sống ẩn mình nơi miền núi hẻo lánh cùng các em khuyết tật này. Ôm chậu
quần áo ra dòng suối. Như Huyền thấy mặt nước hôm nay thật đẹp, một làn hơi
nước màu trắng lãng đãng bay cuộn tròn rồi tản ra như những chiếc khăn voan mỏng
ẩn hiện theo độ gió thổi tới. Những làn hơi ấy, cô thấy dòng suối hôm nay thật
ấm áp, có chỗ như đứng yên lại, chỉ vài gợn sóng nhỏ lăn tăn báo hiệu sự xuôi
dòng của mặt suối. Như Huyền nhanh nhẹn lội xuống mặt nước để làm cho xong công
việc của mình, đôi chân dù đã mang lớp ủng chống ướt, cô vẫn cảm thấy làn nước
lạnh thấu vào chân, nhưng bước ra sâu hơn một chút, cảm giác lạnh không còn nữa
mà là một dòng nước ấm dễ chịu. Đôi tay nhanh nhẹn giũ đi tất cả những dơ bẩn
của quần áo các cháu sau một đêm. Công việc được cộng hưởng sự yêu thích nên
cũng thật nhanh gọn.
Bước lên chỗ tảng đá kép, Như Huyền nhanh
chóng phát hiện ra Phi Hòa đang đi tới cùng tiếng chào thân quen: “Chào dì Như
Huyền”
.
.
Đã lâu Như Huyền chưa nói chuyện riêng với
anh, mặc dù anh vẫn thường xuyên ghé cộng đoàn. Cô nhìn thấy sự thay đổi nơi
anh, một con người hòa nhã vui vẻ. Cô muốn chúc mừng anh nhưng bức rào chắn của
những sự nghi ngờ không cho phép. Không mấy chốc Phi Hòa đã tới chỗ tảng đá kép
và nói: “Sao dì không nhắn con ra phụ, giặt lâu trong nước lạnh không tốt đâu!”.
Như Huyền giật mình nhìn anh trước thái độ
xưng hô thật khiêm tốn và nói: “Sao anh lại xưng là con, anh nhiều tuổi hơn dì
mà”.
-
“Đúng
vậy, bởi dì là nữ tu, đáng được tôn trọng như vậy chứ”.
-
Như
Huyền vội xua tay phân bua: “đúng dì là một nữ tu, nhưng dì cũng đầy những yếu đuối của phận người”.
-
“Chính
trong sự yếu đuối lại lộ ra sự cam đảm”. Phi Hòa ngồi đối diện Như Huyền bên tảng
đá, trầm ngâm một chút rồi nhìn Như Huyền trìu mến: “chính công việc dì vừa làm
đó, thật nhạt nhẽo và buồn tẻ lại hôi hám và bẩn thỉu nữa, nhưng nó sẽ trở nên
can đảm và có ích khi ngày qua ngày, tháng lại tháng dì thổi vào đó ngọn lửa
của tình yêu.
Con đã thấy, dì Huyền ạ, dì đẹp lắm! một nét
đẹp toát ra từ nụ cười của một con tim ngày đêm tận tụy, trao trọn tấm lòng
chăm sóc cho những đứa trẻ thiệt thòi về nhân phẩm, địa vị, nói chung mọi khía
cạnh của cuộc sống. Con thấy dì đẹp, vì dì đã lấp đầy những khiếm khuyết của
các em bằng tình yêu, và chính dì, cũng đón nhận tất cả từ Chúa và cộng đoàn
bằng một tình yêu. Nơi dì Nương cũng thế, thật hiền từ và đôn hậu. Các dì khôn
thật, bởi sống cuộc đời có ý nghĩa thì không phải ai cũng làm được. Cái tên nhà
Mồ côi thoáng nghe thật đơn lẻ và buồn thảm nhưng lại ấm áp dì ạ. Giống như
những hạt mầm nằm im lìm trong lòng đất, cộng đoàn các dì cũng thế, hẻo lánh và
âm thầm nhưng không em khuyết tật nào cảm thấy mình mồ côi cả. Chính con, con
cảm nhận nhận như vậy đó dì”.
Như Huyền chăm chú ngồi nghe, cô thật sửng sốt
về sự biến đổi nhanh chóng nơi anh. Nhặt một chiếc lá Bạch đàn rơi, Phi Hòa nói
tiếp. “Ngày mai con được rửa tội gia nhập đạo thánh Chúa, con ước mong mình
cũng trở nên hạt giống tốt mọc lên từ vùng đất khó khăn. Rồi sau đó con đi tìm
bố và đưa bố lên đây đoàn tụ gia đình”.
Nghe anh nói, Như Huyền cảm thấy chùng lòng,
giọt nước nhỏ nơi khóe mắt long lanh muốn trào ra niềm cảm thương cho mỗi người
trong gia đình của anh. Cô im lặng không nói gì hết, nhưng đưa ánh mắt lên màn
trời xa xăm như để cố nén lại cơn giao động của mình. Được một lúc, Như Huyền
như chợt nhớ ra điều gì, liền nói: “về chuyện bố của anh, dì sẽ nói với dì
Nương, dì ấy là người cũng có mối quan hệ rộng, có thể sẽ giúp anh tìm được bố”.
-
“Thời
gian gần đây con có nghe các bác nói bố trở về gia đình khoảng hai tuần rồi lại
đi đâu không rõ. Bố con cứ như vậy đấy dì ạ, nhưng con thương bố lắm”.
-
“Dì
sẽ cầu nguyện cùng Chúa cho bố anh mau lành bệnh, không đi như vậy nữa”.
Thời tiết hôm nay khô hanh làm cho cảnh vật
như sáng hơn mọi ngày, những ánh nắng yếu ớt của mùa đông dọi xuống cũng đủ làm
cho cảnh vật thêm rạng rỡ. Đàn gà con cùng mẹ từ trong bụi cây Nhót cục tác dẫn
nhau ra bãi đất trống để sưởi nắng và kiếm ăn. Như Huyền cũng vội đứng lên để
về Mái ấm, nhưng kìa chậu quần áo bị ướt cũng khá nặng làm cô thấy khó khăn.
Lập tức Phi Hòa đỡ đầu chậu bên kia và nói: “để con giúp dì một tay nhé!”
Hai người vừa đi được một quãng ngắn thì dì
Thu từ đâu đi tới, tức thì dì trợn mắt lên và hằm hằm to tiếng: “thì ra hai
người đang hẹn hò với nhau ở đây, nhà Mồ côi không đủ chỗ cho hai người nói
chuyện sao?
Thấy tình thế bắt đầu phức tạp, Phi Hòa thanh
minh: “Dì ơi, dì hiểu lầm rồi, chỉ là con mới đi qua đây rồi giúp dì Như Huyền
khênh quần áo về thôi”.
-
“Anh
để đó, về đi, đây là chuyện của các dì”. Dì Thu xẵng giọng nói.
Như Huyền khệ nệ ôm chậu quần áo theo hướng cộng
đoàn đi về, tránh cơn nóng nảy đang xảy ra, nhưng dì Thu gọi giật lại.
-
“Dì
đã để ý và thấy em không trong sáng trong các mối quan hệ, nhất là với những
người khác giới. Em có biết lý do nào làm em không được vào lớp dọn khấn trọn
không?”
-
“Thưa
dì con xin lỗi, nhưng trong thâm tâm con không có ý nghĩ như dì nói đâu ạ”.
Được mấy bữa bầu trời quang đãng, đám mây đen
lại lù lù kéo đến phủ khắp cả vùng trời, cộng thêm mấy cây trụi lá trước sân
làm tâm trí càng tiêu điều và buồn thảm hơn nữa. Như Huyền vẫn hàng ngày lần
chuỗi mân côi để thêm nghị lực thiêng liêng, cùng với hình ảnh các cháu khuyết
tật hiện ra trong tâm trí, nên cô càng xác tín: mình cần phải chịu nhiều thử
thách hơn nữa.
Ngày lễ Giáng sinh trọng đại đã đến, cả xóm
đạo nhỏ bé này đều hớn hở tới nhà thờ dự lễ. Lâu lắm, hôm nay mới có cha lên
dâng lễ, lại là lễ trọng, trong thánh lễ sẽ rửa tội cho một số người dự tòng.
Trong đó Phi Hòa là người Như Huyền biết rõ hơn. Cầm ngọn nến sáng trong tay
anh vui như đứa trẻ. Niềm vui hạnh phúc và những ánh nến tỏa sáng làm đêm đông
thêm sự ấm áp. Cả giáo họ tính từ già đến trẻ cũng ngót chục người, làm thành
một hàng rước từ đền Đức Mẹ vào nhà thờ. Tới thềm nhà thờ, mọi người đều dừng
lại để chứng kiến niềm ước muốn của những người dự tòng này.
Khởi sự nghi thức, cha xứ hỏi người dự tòng: “con
muốn xin gì cùng Hội Thánh?”
-
Thưa:
“con xin đức tin”
Vừa dứt câu tuyên xưng, Như Huyền nghe thấy
tiếng loạt xoạt bên gốc cây si cảnh, vì cô đang đứng bên ngoài nhà thờ. Như có
linh tính chẳng lành, cô nhẹ nhàng bước tới gần để quan sát tình hình thì nghe
tiếng nói xì xèo nho nhỏ đằng sau bụi cây ấy phát ra.
-
“Chính
nó đó, cái thằng đứng đối diện ông cha đó”.
-
“Xử
nó thì phải xử tận gốc, ông cha đó đó, lôi nó vào đạo và bỏ mối làm ăn”.
Như Huyền đang định thần để chạy lại báo tin
chẳng lành có thể xảy đến, thì hai tên côn đồ kia đã xông tới và hô: “đập chết
nó đi”.
Trong nhà thờ lúc đó cũng có hai người đàn ông
chạy ra bảo vệ cha, Phi Hòa cũng thừa cơ ứng phó. Vù một phát, thanh gỗ bay
ngang người Phi Hòa, nhưng anh né kịp và hất khúc gỗ của một tên rơi xuống. Tên
còn lại thấy Phi Hòa đang để ý khúc gỗ kia thì liền lao tới giáng thật mạnh
xuống vai Phi Hòa. Bị đòn đau, anh cay cú xông tới nện vài phát đấm và ra lệnh
đuổi thẳng cổ: “Chúng mày cũng phải bỏ cái nghề bất chính ấy đi, đừng nhúng tay
vào việc tàn phá rừng nữa”.
Biết hành động không đúng lúc, lại nhức tai
bởi đám bà con xóm đạo, hai tên kia lủi thủi bỏ đi. Không ngờ, một trong hai
tên đó đã quay lại cầm khúc gỗ định bang cho Phi Hòa một đòn chí tử vào đầu,
may thay dì Nương đứng gần đó, nhìn thấy và gọi Phi Hòa. Tức thì anh cũng nổi
máu lên đánh trả lại tên đó, khúc gỗ rơi mạnh xuống gáy làm anh ta ngã lăn ra
đất, bất tỉnh.
Sau thánh lễ, hai tên công an đã đứng chờ sẵn
ở cuối nhà thờ. Chiếc còng số 8 lạnh ngắt đã lẳng lặng đưa Phi Hòa đến đồn công
an một cách nhanh gọn. Những thanh gỗ dính máu còn đó, đủ bằng chứng tố cáo cho
vụ giết người. Dì Nương, dì Thu và mọi người đều thương anh, xót xa cho một
Kitô hữu non trẻ đã phải dính vào vòng pháp luật. Riêng Như Huyền thì đứng sững
ra đó, cô không nói được lời nào để tạm biệt anh, lưỡi cô như bị dính lại bởi
dòng nước mằn mặn nghẹn vào bên trong. Một mình cô đứng một góc, chẳng ai để ý
đến hành động của cô lúc này, vì mọi quan sát, mọi lo lắng đang đổ dồn về phía
Phi Hòa. Bé Thiên Nga mù cũng đứng đó với các dì, quơ quơ mấy ngón tay về phía
dì Nương với tràng cười hồn nhiên làm cho người khác càng đau lòng.
Về đến nhà, Dì Thu đón gặp dì Nương và nói: “chị
ơi, Phi Hòa có bị kết án không, rõ ràng anh ta không cố ý mà”.
“Cũng có hy vọng”. dì Nương nhìn mông lung lên
bầu trời một cách buồn thảm rồi nói tiếp: “để chị gặp trưởng công an xã. Trường
hợp này có thể không bị tử hình hay án chung thân nhưng cũng bị tù ít là vài năm.”
Chương 15. Một đứa con ra đời.
Một năm đã trôi qua, năm nay dì Nương cho phép
chị Lan dọn đồ vào cộng đoàn ở luôn. Chị được ở một khu nhà riêng, tách biệt
với khu nội vi của các dì. Dì Thu hục hặc khó chịu nhưng vẫn phải vâng lời dành
một căn phòng cho chị. Kể từ ngày chị về sống cùng cộng đoàn, ai cũng quý mến
chị, không hẳn do chị chịu khó làm việc, mà sự hòa đồng vui vẻ đã khiến những
ái ngại của mọi người cũng tiêu tan. Phần đất màu và đất cấy đã được chị cho
thuê để dồn sự chăm sóc cho hai đứa con của chị và các cháu ở đây. Ngày tháng vẫn
trôi qua êm đềm, chị Lan làm phận vụ của mình một cách hoàn hảo đến dì Thu cũng
không chê trách được điều gì, chỉ có điều càng ngày chị ít nói hơn. Những đợt
gió lạnh sau tết buốt hơn làm mọi người đều phải trang bị thêm áo ấm. Riêng chị
Lan, Huyền cảm thấy có điều gì đó khác thường, khuôn mặt vốn gân guốc nay trở
nên bành bạch, đường gân lộ rõ những màu xanh to nhỏ từ cổ lên trán. Tối hôm
đó, Như Huyền trộm lẻn gần phòng chị Lan để thăm dò, thì kìa trông chị tội
nghiệp làm sao, những cơn thở dốc nặng nhọc như đè thân chị xuống. Chị đang
khóc ư, đúng rồi, chị khóc cũng phải, vì đời chị toàn những bất hạnh, hai đứa
con của chị chưa một tiếng gọi mẹ. Như Huyền hiểu điều đó, nhưng dẫu sao vẫn
không thấm khô những giọt nước mắt hết chảy dòng lại lắng cặn trong bế tắc của
phận người. Những tối sau đó Như Huyền thường ghé thăm, và hôm nay cô thản
nhiên gõ cửa bước vào. Chị Lan đón nhận bàn tay ấm áp Như Huyền đang xoa xoa
trên khuôn mặt như để ru chị vào giấc ngủ, thỉnh thoảng hai chị em cùng tâm sự
với nhau, nhờ vậy Như Huyền càng hiểu rõ hơn về hoàn cảnh của chị Lan.
Hai tháng sau, thấy chị Lan mệt mỏi hơn nên dì
Nương cho nghỉ làm việc. Như Huyền đang tưởng tượng một căn bệnh nặng nào đó
khiến chị Lan trông tiêu điều như vậy. Một buổi tối, Như Huyền khẽ đẩy cửa bước
vào, cô khe khẽ gọi nhưng không thấy trả lời, cô lên tiếng gọi to hơn nhưng vẫn
im bặt. Cô chạy nhanh về phía giường thì chỉ thấy đống chăn nằm im đó. Lúc này
màn đêm như sẫm hơn bởi cảm giác lạnh đang tràn về pha chút nỗi sợ hãi cùng lo
lắng cho chị Lan. Cô không dám bật điện lúc này, nhưng lần mò xung quanh nhà
xem chị Lan có ngã ra đất chăng. Được một lúc mắt cô quen dần với bóng đêm thì
cũng là lúc cô phát hiện ánh đèn yếu ớt chiếu từ dãy hành lang nhỏ phía sau hắt
sang. Sự phát hiện mới này làm cô không khỏi tò mò bước tới, lối nhỏ vướng phải
mấy cây sào gác trên nóc bị rơi xuống. Chợt có tiếng mèo kêu, đúng là mèo con
tìm mẹ trong tiếng kêu thật tha thiết đầy non nớt của mình. Cô có thể trợ giúp
được gì chăng? Ý tưởng vừa lóe lên thì cô cũng tới căn phòng có ánh điện. Cánh
cửa không khóa nên lộ ra bức tranh toàn cảnh đầy hiện thực của một cuộc sinh nở
lạ lùng chưa từng có nơi nhà Mồ côi. Cô tròn mắt lướt một vòng và chiếu sự ngạc
nhiên tới dì Nương, cô vội che miệng lại như để chặn âm thanh đang trực thốt
ra. Dì Nương không nói gì nhưng ra hiệu đến giúp, Như Huyền hiểu ý và đến giúp
dì những việc còn lại.
Xong việc, Như Huyền đến bên dì Nương hỏi nhỏ:
“Chuyện này là sao hả dì?”
Trầm ngâm giây lát dì trả lời: “đó là một câu
chuyện tình yêu em ạ”.
Quả thực, bên cạnh dì Nương, chị Lan đang nằm
yên lặng bên đứa con trai mới ra đời, áp khuôn mặt mình bên khuôn mặt bé xíu
kia, mắt chị ánh lên niềm hạnh phúc. Sức hấp dẫn của con người thật mãnh liệt,
ngay khi vừa xuất hiện đã mang đến niềm hạnh phúc cho mọi người. Một lần nữa,
Như Huyền thấy chị Lan đang no tròn niềm vui, một niềm vui vô biên lấp đầy bao
khổ đau đã giày xéo tấm thân chị bấy lâu nay, niềm vui đã bừng sáng làm ấm cả
gian phòng. Quay sang dì Nương, cô thấy Dì cũng vui, nhưng cô chẳng thể hiểu
hết những diễn tiến đã xảy ra trong thời gian qua như thế nào.
Trời đã ngả về đêm, Như Huyền quay về phòng
các cháu nhỏ để ngủ, thì kìa bé Thiên Nga mù vẫn đang thức. Có phải nó nhớ bố,
biết được bố đang ở tù chăng? Cô lặng lẽ ru nó vào giấc ngủ.
Bí mật trong đêm về một người phụ nữ không
chồng mà có con đang râm ran truyền tai trong cộng đoàn này. Mới sáng sớm,
chuyện về chị Lan đã xáo trộn cả nhà. Vừa thấy chị Lan bước vào, dì Thu liền
nổi cơn tức giận và tra hỏi:
-
“Em
có thai sao không nói cho mọi người biết, giấu đến tận giờ này là có ý đồ gì? Em
không biết đây là nhà các dì sao, chẳng ra thể thống gì cả”.
Trong khi chị Lan chỉ biết im lặng thì dì Thu
lại nói tiếp: “thế thằng làm cho em dính bầu là ai, nó ở gần đây không?”
Quả uất đã nghẹn đến tận cổ họng, đáp lại câu
trả lời của dì Thu là câu xin lỗi lí nhí phát ra từ cổ họng còn ứ đầy nước mắt
của cuộc đời. Như Huyền và Bảo Trân đứng nép sau bức tường, rón rén từng nhịp
thở cùng nỗi sợ của chị Lan, không biết chị có được ở trong nhà này nữa không.
Dì Thu rất thẳng thắn, chuyện này mà đến tai nhà dòng mẹ thì chắc không ai yên
thân.
Vừa nghĩ đến đó thì dì Nương xuất hiện, chị
Lan và dì Thu đều quay ra đón dì bằng ánh mắt khác nhau trong tâm trạng riêng
tư.
-
“May
quá, chị đã vào đây, giờ chúng ta phải giải quyết trường hợp này ra sao?” Dì
Thu nôn nóng ra đón hỏi.
-
Dì
Nương ôn tồn nói: “Em nó đã lỡ vậy thì mình giúp nó cho đến khi mẹ con khỏe một
chút rồi tính sau”.
-
“Trời
ơi, nhà mình nuôi cả chục em khuyết tật chưa mệt hay sao mà còn rước thêm món nợ
này nữa, ôi chao ơi, chị nghĩ làm sao vậy”. Dì Thu ngồi phệt xuống ghế với nét
mặt nhăn nhó tỏ vẻ không chịu gánh thêm công việc nào nữa. “Nó đã gây ra chuyện
thì tự ra ngoài mà kiếm sống, im im lỉm lỉm vậy đụng đến lòng tự trọng của em
lắm”.
Nhìn sang chị Lan, Như Huyền thấy mắt chị đã
ngấn lệ. Dì Nương như thấy điều đó nên bước lại gần chị Lan, đặt tay lên vai
chị và nói với dì Thu: “Thật ra chị cũng mới biết chuyện của em Lan cách đây
không lâu, vì bụng em rất nhỏ, mà chúng ta đều đi tu chẳng ai biết gì về thai
kỳ cả cho đến khi chị vào cạo gió cho em trong một lần ốm nghén. Lan đã phạm
tội lớn, cứ cho là như thế, nhưng đằng sau đó là cả một câu chuyện dài đầy tình
tiết, đầy màu sắc của khát vọng tình yêu, chúng ta đừng nghĩ như một bài toán
có sẵn đáp số. Vậy cứ để cho em nó ở lại đây đến khi khỏe lại”.
Nghe quyết định của dì Nương, Như Huyền và Bảo
Trân vui mừng bước vào, còn dì Thu vẫn khăng khăng thái độ không bằng mặt rồi
im lặng bỏ ra ngoài.
Đám trẻ trong nhà nghe ngóng chị Lan có em bé
thì vui mừng lắm vì ngôi nhà này có thêm thành viên mới, chúng háo hức tự bảo
nhau quét dọn nhà cửa mà không cần sự nhắc bảo của dì nào cả.
Chương 16. Sự kỳ phùng của tình yêu
Bảo Trân vừa khệ nệ bưng chậu quần áo từ suối
trở về, cô gác những cây sào dài để phơi những cái chăn. Em Hằng bước theo sau
phụ dì Trân, tay cũng bưng một chậu nhỏ gồm những tã lót của con chị Lan, những
loại này được phơi riêng một góc. Cả tuần nay bầu khí cộng đoàn như ảm đạm, hiu
hắt và lạnh lẽo hơn. Từ đêm đến sáng, những đợt sương muối kéo xuống làm da mặt
ai cũng ram ráp khó chịu, nhất là những luồng gió lạnh ngắt vẫn không ngừng
tràn về. Phía bên dãy nhà chị Lan ở có nhiều cây cối hơn, nhưng sương muối đã
làm những chiếc lá cuối cùng cũng phải rụng xuống.
Hôm nay thì khác, ông mặt trời đang phả những
tia nắng ấm áp xuống mặt đất. Thấy vậy, đám trẻ khuyết tật vội ra tắm nắng, vì
lúc này ở trong nhà sẽ vẫn lạnh, chỗ nào có nắng sẽ ấm hơn, lâu lâu có làn gió
thổi về thật là thích. Chiếc chăn cuối cùng được phơi lên, dì Trân cho chúng
phơi nắng một chút rồi đuổi hết vào nhà, vì đứng lâu sẽ nẻ hết mặt mũi ra.
Bất
chợt Bảo Trân nghe tiếng loẹt xoẹt đâu đó, hình như hai con mèo đang đuổi nhau
trên mái tôn, ngay chỗ phơi đồ. Tức giận lắm vì chúng mãi không chịu đi, Bảo
Trân lấy cây chạy ra xa hơn một chút để lấy thế lao cây lên mái nhà. Thì kìa,
mèo không thấy đâu cả, mà là hai cháu khuyết tật Nhung và Ngân đao, đứa 8 tuổi
đứa 6 tuổi, đang đùa giỡn trên đó. Hoảng quá, Bảo Trân vội chạy vào bếp gọi Như
Huyền ra để cứu tình thế cấp bách này, vì mái tôn đâu có chắc, cũng chẳng có
tấm chắn, chúng mà trượt chân thì chỉ có rơi xuống đất nát đầu ra thôi.
Vừa đi Bảo Trân vừa phàn nàn: “em vẫn đứng
canh ở đây mà không biết chúng leo lên đó từ lúc nào”. Như Huyền suỵt suỵt ra
hiệu Bảo Trân đừng manh động kẻo chúng biết, sau đó cô nhẹ nhàng theo lối tường
bao nhà bếp bên kia để leo lên. Định tâm không làm chúng hoảng sợ, rồi đưa từng
em xuống lối cầu thang an toàn. Tới nơi Như Huyền kéo được bé Ngân vào trong.
Bé Nhung thấy vậy, hoảng quá, bé cứ thẳng phía ngoài mái tôn mà chạy ra. Nhanh
như chớp, bé Nhung đã lao đầu thẳng xuống sân trong sự tuyệt vọng của Như Huyền.
Ngay sau đó là tiếng thét của Bảo Trân, một chất giọng vang lên trong sợ hãi
nhưng thật gấp rút. Ở trên đầu mái tôn, Như Huyền cứ ôm bé Ngân mà khóc rồi gọi
tên: “Nhung ơi, dì có lỗi với con, dì có lỗi với con, dì không đủ can đảm để
chạy xuống nhìn hình hài tan nát máu me của con lúc này”. Rưng rưng trong khuôn
mặt đìu hiu, cô đang chuẩn bị tâm thế đón những điều tồi tệ nhất từ bản thân bé
Nhung, với dì Nương và dì Thu.
Vừa bước xuống cầu thang, Như Huyền nghe thấy
nhiều tiếng xì xào ngoài sân, cô bước chậm rãi và bảo bé Ngân đứng yên ở đó, cô
không muốn bé phải nhìn thấy cảnh đau lòng. Nhưng rồi, trước mặt cô, một cảnh
tượng ngược hẳn với suy nghĩ tiêu cực lúc nãy, cô vội lau đi những giọt nước
mắt còn hoen lại nơi khóe mắt rồi chạy nhanh ra sân. Bé Nhung không chết, nó
đang ngồi trên đùi một người đàn ông, người mà trước đây cô đã chạy đi tìm ban
đêm không được thì nay đã tự tới. Mái tóc đã cắt hẳn hoi và ăn mặc gọn gàng nên
nhìn ông trẻ hơn cả hồi cô thấy ở Vạn Thủy, bộ quần áo trông tươm tất sạch sẽ
hơn, song không đủ che được những rãnh nhăn đầy ưu tư đang chất chứa phiền
muộn, dáng vẻ thất thểu vẫn vương lại bên lớp da loang lổ như cột nhà cháy. Cô
bước tới, mỉm cười và khẽ nghiêng người chào ông với thái độ kính trọng và biết
ơn đối với người lạ mặt. Theo lời Bảo Trân kể: “lúc bé Ngân đang từ độ cao rơi
xuống thì bác này đã chạy vào và đỡ nó an toàn”.
Ngay lúc đó dì Nương và dì Thu cũng cùng nhau
chạy ra. Nghe vậy, dì Thu nhìn Như Huyền và Bảo Trân mà mắng: “hai em trông các
cháu thế à, đoảng quá, cháu leo lên giỡn trên mái tôn mà không biết!”
Đang trong tình thế phải xin lỗi về việc các
cháu leo mái tôn nghịch, thì Như Huyền nghe tiếng chào của dì Nương:
-
“Ồ,
chào anh Trương nhé. Dì cám ơn anh nhiều lắm”
Vừa nói dì vừa bắt tay ông một cách thân thiện
rồi đón bé Nhung từ tay ông. Bé chẳng có chi hoảng sợ mà còn kéo tay dì Nương
chỉ lên mái tôn rồi phát ra một tràng ngôn ngữ mà chẳng ai hiểu bởi bé bị chứng
đầy lưỡi, vừa nói bé vừa lắc vai một cách khoái chí. Quay sang dì Thu, dì Nương
nói tiếp. “May mà có anh Trương đến kịp thời, nếu không thì các dì lại gặp rắc
rối to rồi đó”.
Vừa lúc ấy, chị Lan bế con từ trong nhà đi ra,
chị nhìn thấy ông Trương và mỉm cười chào lại bằng nét mặt thật tươi. Cùng lúc
ông Trương chuyển hướng nhìn về phía chị Lan thì dì Thu, Bảo Trân, Như Huyền
cũng như dì Nương đều tròn mắt ngạc nhiên về hai con người trước mắt họ.
Ông Trương với dáng vẻ đầy can đảm và trách
nhiệm, bước tới đón đứa bé từ tay chị Lan và tuyên bố: “thằng bé này là con của
tôi, tôi cám ơn quý dì đã cưu mang hai mẹ con họ trong suốt thời gian qua, tôi
đội ơn quý dì lắm”.
Ngay tức khắc, dì Thu lồng lộn chạy tới chị
Lan mà trách cứ: “Lan ơi, em thật là…. Em có con với anh này hả, em có biết anh
ấy bị điên điên hâm hâm không?”
Vừa nghe nói đến đó, sắc mặt ông Trương thay
đổi thật nhanh từ khí thế oai phong, đĩnh đạc, vui vẻ nhận con sang bộ mặt bị
xúc phạm. Rồi không nói một lời, ông tiến thẳng ra cổng bỏ về.
Chị Lan gọi với theo ông Trương ra tới cổng,
nhưng ông lên xe vụt mất trong sự hụt hẫng, day dứt trước tương lai vô định của
mình và đứa con. Dì Thu biết mình lỡ lời nên bây giờ im lặng không nói gì thêm.
Thừa lúc ấy dì Nương tiến lại vỗ nhẹ vào vai chị Lan thể hiện sự cảm thông, chia
sẻ và ra hiệu cho mọi người vào nhà. Đưa mắt nhìn, chị Lan thấy mọi người còn ở
đây nên chị không muốn giấu diếm điều gì nữa, ngồi lên ghế chị nghẹn ngào trong
nước mắt:
“Thưa các dì, con biết thân phận của con chẳng
là gì cả, nhưng chính Chúa đã đem tình yêu đến cho con, Ngài đã xe duyên cho
con. Vâng, người đó chính là anh Trương mà các dì vừa thấy lúc nãy, anh ấy
chẳng đẹp trai, cũng chẳng giàu có, lại có chứng bệnh co giật mà mọi người vẫn
gọi là điên, và dĩ nhiên anh bị loại ra bên lề xã hội một cách không cần suy
xét”.
Vừa nói đến đây, Như Huyền sực nhớ tới Phi
Hòa, anh ta cũng kể về người bố của mình như thế, “chẳng lẽ…” Như Huyền tự suy
diễn trong thâm tâm bởi biết đâu có thể tìm được bố cho Phi Hòa cũng nên. Tiếng
chị Lan phát ra kéo Như Huyền về thực tại. “Mọi người không tưởng được đâu, con
thấy anh ấy có nhiều điểm tốt lắm: đó là tình thương, sự đồng cảm và trên hết
là tình yêu. Mùa hái quả Sấu năm ngoái, con cùng mấy người trong xóm lên rừng
hái Sấu để bán, vì muốn kiếm thêm ít tiền, con đã đi thật sâu vào rừng để hái.
Đang khi hái trên một cây sấu rất cao thì con đã chạm vào tổ ong, thế là cả đàn
bay ra thi nhau đốt con. Ngay lúc ấy con đã thả hết Sấu để leo xuống cho dễ,
nhưng không kịp, toàn thân con bị ong đốt, đôi mắt cũng xưng húp lên không thấy
gì và con ngã nhào xuống đất. Khi tỉnh dậy con thấy có người bên cạnh, anh ấy
đã đưa con vào bệnh viện để chữa trị. Thời gian sau đó anh đã về nhà sống chung
với con như một người bạn cảm thông bao nỗi đau khổ trong cuộc đời. Tình yêu
con nhen nhúm từ đó, con cũng muốn có một người để nương tựa, một đứa con biết
mở miệng chào bố mẹ mỗi sáng thức dậy. Con muốn lắm các dì ơi!”
Dì Thu ngồi im từ nãy đến giờ với thái độ lắng
nghe về quá khứ của Lan đã được giãi bày một cách rung động, làm con tim của dì
lúc này khó đóng băng được nữa, thế là dì chủ động mở đường cho Lan và bảo: “nếu
bên đó thật lòng với em, thì em cũng không nên chối từ, các dì sẽ giúp em làm
mấy mâm ra mắt bà con là được”.
Dì Nương trố mắt như không tin vào tai mình khi
thấy dì Thu thay đổi thái độ mau như thế. Chị Lan nghe vậy vui mừng quay sang
cám ơn dì Thu rối rít. Vậy từ nay con sẽ có một gia đình để sống.
Ánh nắng đầu xuân đẹp làm sao, nó tỏa sáng và
vươn mình khắp mặt đất để tắm cho lớp chồi non những hơi ấm của sự sống mới.
Hai cây Sấu trước sân đang chìa những lá non mỏng manh thật dễ thương, những
làn gió thổi qua làm chúng trở nên yểu điệu như con gái tuổi đôi mươi. Ánh nắng
cũng có lối đi riêng của nó. Chan hòa khoảng mênh mông những gam màu sáng như
báo sự vui mừng trở lại của tâm hồn con người. Sau giờ cơm tối, Như Huyền cùng
Bảo Trân đi dạo lối sau nhà, nơi có dãy bằng lăng đang mùa rụng lá, trơ những
cành khẳng khiu đan xen nhau như thể cùng dắt dìu nhau vươn mình lên bầu trời.
Ngồi trên chiếc xích đu, Bảo Trân hít hà lớp không khí lành lạnh, làn gió nhẹ
thổi xuyên thấu vào mũi rồi chạy xuống cổ họng một cách dễ chịu. Như Huyền thì
ngồi đực mặt ra đó. Thấy vậy, Bảo Trân lay cánh tay cô và nói:
-
“Như
Huyền à, cậu đang nghĩ gì đó”?
-
“Tớ
đang nghĩ về ông Trương”. Như Huyền đáp lại.
-
“Ông
ấy có gì hay ho chứ?”. Bảo Trân tròn mắt tò mò.
-
Quay
sang nhìn Bảo Trân, Như Huyền hạ nhỏ giọng nói: “Um, tớ cũng không biết nữa,
nhưng không hiểu sao tớ đã gặp ông ấy mấy lần rồi, nhưng chưa khi nào có dịp
nói chuyện cả”.
Bảo Trân cũng xoa xoa cái trán để suy nghĩ,
chợt cô nhớ ra điều gì đó liền nắm tay lại như khẳng định điều chắc chắn: “Như
Huyền à, tớ nghi ông ấy là bố của anh Phi Hòa đó, cậu nghĩ sao?”
-
“Ồ
tớ không nghĩ ra nhỉ, nhưng mình không biết mặt bố anh ấy và tên cũng không
biết nữa, vậy thì phải làm sao?”
-
“Thì
đi hỏi Phi Hòa í”. Bảo Trân nhanh miệng đáp lại.
Như Huyền thấy ý kiến này có vẻ khả thi, cô
gật gật cái đầu. Nhìn lên bầu trời, cô thấy thời gian như đang chầm chậm trôi,
lúc này màu đen sẫm của trời khuya đang chiếm lĩnh cả vũ trụ này.
Một nỗi buồn miên man ập đến, hình ảnh người
mẹ lại trở về trong tâm trí Như Huyền, bao giờ cô mới thực hiện được ước nguyện
của mẹ. Nắm tay Bảo Trân, Như Huyền nói nhỏ: “nãy cậu nói về bố Phi Hòa, làm tớ
cũng nghĩ đến người bố của mình”.
Bảo Trân dừng lại, khuôn mặt suy tư: “Ừ nhỉ,
chẳng có chứng cứ gì để tìm, mặt mũi hình hài thế nào không ai biết, chỉ trừ
cái tên Chu Cao Trung, mà thế giới này thiếu gì tên Trung cơ chứ cậu nhỉ”.
-
“Bố
của tớ là một thầy tu đó. Mẹ còn nói, bố là người cân đối hình hài với hai bờ
vai rộng, bụng hơi to một chút và có khiếu hài hước nữa. Tớ chỉ biết vậy thôi”.
-
“Thế
cậu vẫn lấy họ mẹ à”. Bảo Trân hỏi lại.
-
“Ừm,
mẹ tớ bảo cứ để tên như vậy cho đến khi gặp được bố thì tính sau, nhưng mẹ thì đã
khuất rồi, tớ cũng không biết phải làm sao nữa”.
-
“Mẹ
cậu ở trên trời sẽ phù hộ cho cậu đoàn tụ được gia đình”. Bảo Trân kéo Như
Huyền vào nhà.
Hai chị em cùng đứng lên đi ngủ khi chiếc bóng
của đầu ngọn cây chỉ còn lại lờ mờ giữa trời đêm.
Chương 17. Trại giam X
Men theo bìa rừng già là lối mòn thông sâu
sang tận huyện khác. Lối mòn này được tạo nên do những chiếc xe chở gỗ, chúng
hóm xuống một ít như chiếc vũng cạn dọc dài men quanh khu rừng, thỉnh thoảng có
những đụm cỏ gấu mọc chìa ra, lổm nhổm quanh mỏm đá nhỏ ở giữa đường như thử
thách tay lái của mấy bà sơ chân yếu tay mềm. Chiếc xe cup 80 nghiêng ngả lướt đi
trên các nẻo đường ghồ ghề khác nhau. Con đường này mới đi lần đầu nên Như
Huyền phải rất chú tâm tới độ an toàn cho mình, bé Thiên Nga và dì Thu đang
ngồi phía sau. Những xe công nông chỉ chạy ban đêm nên Như Huyền chỉ chú tâm
vào độ dốc, sự ngoằn nghèo khúc khuỷu hoặc những cành khô rơi ngổn ngang giữa
đường như để chọc ghẹo những ai qua lối này.
Sau hơn một giờ đồng hồ, ba dì cháu đã tới cổng
trại giam X. Dì Thu đưa ít tiền cho người gác cổng rồi tiến thẳng tới phòng chờ.
Mọi người đều giật mình khi nghe tiếng chào gãy gọn, vui tươi: “con chào các dì!”
của Phi Hòa. Ngay dì Thu cũng bỡ ngỡ đến không ngờ vì nghĩ Phi Hòa sẽ bê gương
mặt uất hận, căm thù hay đùng đùng sát khí để nói lên sự oan ức của mình. Bé
Thiên Nga chăm chú lắng nghe rồi nhận ra ngay bố mình, bàn tay biết nói kia
đang quơ quơ khắp khuôn mặt rồi ôm chặt cổ bố và dúi đầu vào đó trong niềm vui
chân chất của tuổi thơ.
May mà Thiên Nga còn nhỏ lại mù lòa nữa, nó
không thể nhìn thấy một khuôn mặt đen đủi, lởm chởm những vết loang lổ do phơi
nắng phơi sương trong những ngày lao động nặng nhọc ở trại giam. Dù anh đang
cười thật tươi nhưng dáng vóc tiều tụy, khô ráp kia không thể che nổi sự cùng
cực, đau khổ đang gặm nhấm tâm hồn anh từng ngày. Vừa gặp hai dì, anh không
khỏi động lòng và cám ơn về sự chăm sóc chu đáo cho con gái của anh, bởi sau
một năm mà nó lớn đến trông không ra.
Sau hồi thăm hỏi, dì Thu ra hiệu Như Huyền bế
Thiên Nga ra ngoài, qua ô cửa kính, cô thấy dì Thu đang nói gì đó với Phi Hòa.
Hai người bắt tay rồi gật gật đầu làm cô không thể hiểu. Đứng bên ngoài phòng
chờ, Như Huyền để ý đến một dáng người trông quen quen, dường như đó là một
trong hai tên đã gây hấn với Phi Hòa trong ngày lễ rửa tội, hắn đã chết rồi mà.
Nghĩ đến đó cô cảm thấy sờ sợ, một cơn rùng mình chạy qua khắp cơ thể làm cô
phải bế vội bé Thiên Nga vào nhà để báo cho dì Thu biết tình hình này là thật
hay do cô đang ảo giác.
Bước vào trong Như Huyền nhìn thấy anh trưởng
cai trại nói chuyện có vẻ rất ăn ý với dì Thu, cô thấy anh cười cười tỏ vẻ hài
lòng. Sau đó thật nhanh, dì giục cô mau lên xe về nhà, kế hoạch tối qua bàn với
Bảo Trân không thực hiện được, vì chẳng nói chuyện với Phi Hòa được câu nào cả.
Chiếc xe Cup cũ kĩ lại khổ công lăn bánh về nhà, đi được một quãng, cô cảm thấy
có người đang đuổi theo mình, một cơn ớn lạnh khác lại hiện lên khi nhớ lại
hình ảnh anh chàng lúc nãy. Nhưng kìa, thật ngạc nhiên qua gương chiếu hậu đã
mờ nhạt do lớp hoen gỉ của thanh tay cầm, cô thấy anh trưởng trại đang lẽo đẽo
chạy theo sau. Thấy vậy, dì Thu trấn an: “không sao đâu, em cứ lo lái xe đi, họ
theo sau bảo vệ mình đó”.
-
“Vậy
ở đây cũng nguy hiểm dì nhỉ”.
-
“Um,
nơi đường vắng như vậy thì độ an toàn cũng khó lường”.
Như Huyền tiếp tục đạp phanh cho xe đổ thẳng
xuống dốc, bên dưới là dòng suối chạy qua, mực nước cũng cao đến gần đầu gối,
nhưng nước rất trong làm cho người ta cảm giác không sâu lắm. Ở nơi vùng núi
này thật nhiều con suối chạy ngang như vậy, nhưng cũng không thiếu những tai
nạn thương tâm do độ ghập ghềnh uốn éo của con đường. Vừa chạy qua con suối,
Như Huyền vội trả về số một để lên con dốc cao ngút đang dựng đứng phía trước.
Ngồi phía sau, bé Thiên Nga không ngủ mà vẫn ôm chặt dì Thu để đảm bảo an toàn.
Lượn mình trên dốc, cô trải nghiệm cảm giác chinh phục thật thích thú, đời mình
cũng cần những cú liều lĩnh, bay lên để khám phá những cái mới, và thêm chút lì
nữa dễ thành công.
Chương 18. Nảy sinh kế hoạch
Bầu trời hôm nay thật quang đãng với những tia
sáng rực rỡ của ánh mặt trời ngoi lên từ phía đằng đông. Riêng mặt trời, nó như
khối lửa đỏ nhạt đi lên, nghiêng mình trên ngọn đồi chờ lệnh của ông trời. Vào
độ nửa mùa buổi sáng là lúc đẹp nhất, như một bức họa toàn bích cả về không
gian lẫn nghệ thuật phối cảnh. Các cháu tha hồ tập thể dục dưới ánh mặt trời
pha lẫn gió nhẹ này, các em bị liệt cũng được đem ra tắm nắng trên ghế đặc biệt
dành riêng của chúng, các em đi lại khó khăn hay ngồi xe lăn cũng được tập tễnh
từng bước nhỏ trong hòa khí đầy phấn chấn và vui tươi.
Một buổi sáng đang đẹp là thế!
Bỗng nhiên mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía
cổng, chị Lan lững thững đi vào ôm theo khuôn mặt tiều tụy nhăn nhó cùng đứa
con trên tay. Thấy dì Nương đang đứng ở phía phòng học, chị vồn vã bước tới mà
khóc: “Dì ơi, giúp con với”!
Một sự ngờ ngợ bay ngang ánh mắt của dì. Cả
hai tháng nay Lan không đến nhà các dì, mọi người đều nghĩ mọi sự đã ổn, chờ
thằng bé lớn một chút rồi làm cỗ cho họ. Vậy bây giờ lại có chuyện gì nữa đây.
Như Huyền đón đứa bé từ tay chị và bế nó, còn
chị Lan thì vẫn khóc. Dì Nương phải chờ một lúc lâu mới hỏi lại: “Chuyện gì
cũng sẽ giải quyết được mà, có gì em cứ nói đi!”
Chị Lan lấy tay quệt nước mắt và nói: “Dì ơi, anh
Trương không chịu cưới con, anh bảo ở vậy cũng được. Con còn mặt mũi nào mà
nhìn bà con hàng xóm nữa. Huuuu đời con khổ lắm rồi dì ơi”.
-
“Kể
cũng lạ, anh ấy yêu con và thừa nhận đứa con rồi mà”, Dì Nương nói.
-
“Thì
mới nói dì ạ, lâu lâu anh ấy còn đi đâu xa lắm mà không cho con biết”.
Có những con người đã nếm đủ nỗi đau làm bầm
dập cuộc đời, khiến người ta một lần muốn trở về tuổi ấu thơ để đắm mình trong
nét hồn nhiên ấy. Vừa suy nghĩ Như Huyền vừa thay bỉm cho các cháu. Xong việc
cô thấy nụ cười trên khuôn mặt các cháu vì chúng thấy thoải mái, ồ đây chính
nét hồn nhiên của chúng, cô cũng thấy mình bình an và hãnh diện vì đã góp phần
cho những nụ cười kia thêm xinh hơn.
Một ngày trôi qua là thế, bình dị, giản đơn và
thật êm đềm trong những việc thường nhật.
Hình ảnh chị Lan bế con tức tưởi đến khóc lóc
lại hiện về. Một hạnh phúc nho nhỏ mới nhen nhúm bỗng vụt tắt bởi tấm màn đen
dập dềnh trước mắt. Mình có thể giúp gì cho chị ấy được nhỉ, mình an phận quá,
còn chị ấy vẫn lênh đênh với những ngọn sóng không khi nào ngưng. Nghĩ mãi
không ra, Như Huyền vắt tay lên trán ngỏ lời với Ba Ngôi Thiên Chúa, nhưng
không đầy hai phút, cô đã chìm vào giấc ngủ.
Hôm sau, một lá thư bảo đảm của cậu Phúc được
gửi tới cho Như Huyền. Chiếc phong bì còn nguyên vẹn chắc chưa ai đọc, nhìn một
vòng xung quanh, cô liền mở ra và dán mắt vào nó vì sung sướng. Một lá thư, hai
tờ hai trăm ngàn và một tờ một trăm ngàn!.
Đọc thật nhanh lá thư để biết tình hình sức
khỏe gia đình cậu mợ, cô liền rút ra một tờ hai trăm ngàn bỏ vào túi và tự nói:
“Số tiền này mình sẽ giúp chị Lan”.
Một thế giới tuyệt vời được vẽ trong đầu Như
Huyền, kế hoạch nhỏ này không được cho ai biết ngay cả Bảo Trân.
Như một đứa trẻ, Như Huyền dành thật nhiều
thời gian cho dự tính của mình. Hai trăm ngàn sẽ mua được rất nhiều món đồ,
nhưng mình sẽ mua món quà nào ý nghĩa cho chị Lan và con chị ấy. Nhận được sự
quan tâm nho nhỏ này của bác Trương trong những ngày xa vắng sẽ là niềm vui vô
cùng lớn lao, là động lực giúp chị Lan lấy khí thế để sống và nuôi con.
Hiện thực và giản đơn nhất vẫn là sữa cho trẻ
em. Như Huyền dùng một trăm bảy mươi nghìn mua sữa cho thằng cu nhỏ. Còn chị
Lan là một chậu hoa lưu ly tím nhỏ, không biết bác Trương thích hoa gì và chị
Lan thích hoa gì, cứ chọn loại hoa mình thích. Chị Lan sẽ để ý đến hành động
quan tâm này hơn là chậu hoa kia. Bưu kiện được gửi đi cùng phong thư nho nhỏ
với hàng chữ: “ Thân gửi hai mẹ con”.
Hai ngày sau đó, Như Huyền vui hẳn lên, kế
hoạch thật an toàn. Cô tưởng tượng một sự xúc động ngọt ngào đến từ chị Lan,
một sự năng động của cuộc sống sẽ triển nở, ôm mầm non cùng vươn lên để sánh bước
với đời.
Quả nhiên, như dự tính, Như Huyền xin phép dì
Nương sang thăm hai mẹ con chị Lan, cùng lúc bưu kiện kia được gửi tới. Chị Lan
không tin vào mắt mình khi thấy hàng chữ: người nhận “ Nguyễn Kim Lan. Như
Huyền cũng bế cu Hải chạy tới với vẻ ngạc nhiên.
-
“Lần
đầu tiên trong đời, ôi lần đầu tiên con nhận được quà đó dì Huyền”. Chị Lan tỏ
vẻ sung sướng kêu lên.
-
“Oa,
chị là người hạnh phúc nhất, mà ai gửi tới vậy chị?” Như Huyền hỏi lại.
-
“Đúng
đấy, chị quên mất! - Của anh Trương. Dì Huyền nè, tên anh ấy viết ở đây”.
Chị Lan hồi hộp mở bưu phẩm với vẻ bẽn lẽn
trước mặt Như Huyền. Hộp quà vừa mở ra. Một cây hoa Lưu ly nho nhỏ đang hé vài
bông hoa, kèm theo hai hộp sữa dành cho trẻ em. “Ôi anh Trương chu đáo quá dì ạ”.
Chị Lan hạnh phúc thốt lên. Liền ngay sau đó, một suy nghĩ nảy sinh trong đầu
về cây hoa vô duyên này. Quay sang Như Huyền, chị Lan hỏi: “Dì Huyền, sao không
là hoa hồng nhung mà lại là hoa lưu ly, chán ngắt nhỉ”.
Như Huyền giật mình định thần trong giây lát.
Chết rồi, ai dại mà đi tặng hoa lưu ly cơ chứ, con gái hầu như đều thích hoa hồng
mà, sao mình không nghĩ ra nhỉ. Cầm cây hoa lưu ly trên tay, bất chợt, cô nảy
ra sáng kiến và nói với chị Lan.
-
“Chị
ơi, hoa này có ý nghĩa lắm. Này nhé: “ lưu ly” khác hoàn toàn với ” chia ly” nhé”.
-
“Ờ,
đúng nhỉ, sao chị lại không nghĩ ra cơ chứ. Anh ấy lầm lầm vậy mà tâm lý dì nhỉ,
anh ấy viết có mấy chữ nhưng thân thương quá! “Thân gửi hai mẹ con”. Bây giờ
lấy sữa này pha cho cu Hải uống luôn chứ!”
-
“Đương
nhiên rồi, dùng luôn chị ạ. Thằng bé ăn uống đầy đủ mới chóng lớn”.
Một màn kịch diễn ra thật suông sẻ, Như Huyền
thấy áy náy trong người bởi mục đích tốt nhưng hành động lệch đũa của mình. Dẫu
sao chị Lan tìm được nguồn an ủi từ chính người mình yêu thương sẽ là bài thuốc
khả thi nhất lúc này.
Chương 19. Gặp gỡ
Đúng một tuần sau. Dì Nương lên nhà thờ gặp
bác Trương theo lịch hẹn của dì. Bộ bàn ghế bằng những ụ gỗ đóng lại, chúng
được mặc những lớp sơn và mài nhẵn bóng, lớp bụi được dọn sạch vì mới có cha về
làm lễ hôm trước. Sau lời chào hỏi, dì Nương chủ động mời bác Trương ngồi trước
rồi vào thẳng vấn đề.
-
“Chị
và con trai ở nhà vẫn khỏe chứ!” Dì Nương không quên nở nụ cười thật tươi từ
bản chất vốn có của mình.
-
Bác
khẽ nhếch môi lên tỏ vẻ hài lòng nói: “Khỏe dì ạ”.
-
“Vậy
bây giờ đến lúc có thể rửa tội cho cháu, trước đó thì anh chị cũng lãnh bí tích
hôn nhân để trước mặt Chúa, cháu có cả bố và mẹ”.
Nghe dì Nương nói đến đây, bác Trương lặng im
không nói gì
Với tấm lòng của một con người từng trải, dì
Nương thật điềm đạm để tiếp tục tình huống này. Dì Nương lại hỏi bác Trương một
lần nữa:
-
“Chúng
ta có thể dừng cuộc nói chuyện ở đây được không, nếu anh muốn”. Dì xin lỗi đã
làm cho anh phải suy nghĩ.
Bác trương cúi gầm mặt xuống hồi lâu rồi ngẩng
mặt chạy lại bên dì Nương đang đứng lùi vài bước lúc này và nói: “thật ra, tôi không
thể làm lễ cưới với Lan được”.
-
“Chẳng
lẽ anh không yêu cô ấy?” Dì Nương nhìn Bác Trương với ánh mắt dò hỏi.
-
“Có
chứ!, nhưng tôi đang mắc ngăn trở hôn nhân”.
-
“Anh
đã có vợ?”
-
“Đúng
vậy. Điều này không cho phép tôi làm lễ cưới với Lan được”.
Dì Nương thở dài rồi ngồi xuống bàn: “Người vợ
trước của anh có biết chuyện này không?”
-
“Tôi
cũng không biết nữa”.
-
“Vậy
thời gian gần đây hai người không sống cùng nhau?”
-
“Hơn
hai mươi năm rồi!”
-
Ôi,
dì Nương buột miệng kêu lên một cách ngỡ ngàng: “dẫu sao anh vẫn phải nối lại
cuộc hôn nhân với vợ trước, anh không thể bỏ cô ấy được. Nhưng giờ đây, mẹ con
chị Lan lại là những người tội nghiệp nhất”.
-
“Tôi
biết điều đó”. Sau đó bác Trương phóng ánh mắt mơ màng về nơi xa xăm, rồi rùng
mình khi một chiếc lá nhỏ bay ngang, cử chỉ này làm cho dì Nương thấy ông đang
giao động biết bao. Trong tiếng thở khe khẽ, ông cố rên lên một tiếng: “Tôi
không bỏ mẹ con họ đâu, dì ạ”.
Nói xong ông ngã nhoài ra đất, đôi mắt dì
Nương lộ vẻ kinh hoàng. Một cơn co giật làm ông mất hết ý thức. Miệng, tay,
chân nói chung toàn thân đều đang co giật theo một cử điệu làm ông không thể
kiểm soát nổi mình. Dì Nương cố tìm ở những túi áo và quần xem có viên thuốc
nào không, nhưng không có. Dì đành ngồi đó giữ tay chân cho đến khi ông tỉnh
lại. Ông Trương như người chết mới sống lại, vẻ mặt nhợt nhạt thiếu sinh khí,
ông bắt đầu hít thở và lấy lại sự bình tĩnh như ban đầu.
Dì Nương trở về nhà với vẻ mặt buồn thảm chưa
từng thấy, biết chuyện chẳng lành, dì Thu ra đón hỏi, nhưng dì Nương không nói
gì hết. Tối đó, dì Nương qua gặp Như Huyền và kể cho cô nghe toàn bộ sự việc
hôm nay, kể xong, dì Nương quay sang hỏi.
-
“Con
nghĩ sao về ông Trương này?”
-
“Bác
ấy là người tốt”.
-
“Đúng
thế, nhưng bây giờ câu chuyện của ông ấy đang rồi tung lên nè. Đừng để Lan biết
chuyện nhé, cô ấy sẽ bị sốc đó”.
Như Huyền đan đan các ngón tay lại rồi thêm: “à
dì ơi, bây giờ hỏi bác Trương về người vợ kia, có thể sẽ gỡ được cuộc hôn nhân
này. Sau đó việc cưới chị Lan sẽ không vấn đề gì”.
Dì Nương ngả người ra sau nhìn lên trời nói: “dì
cũng nghĩ như thế, nhưng ông ấy hay bị xúc động lắm. À dì nhớ ra rồi, sáng nay
ông ấy bị lên cơn co giật, những biểu hiện giống hệt con người mà Phi Hòa miêu
tả về bố của mình”.
-
“Dì
ơi, những người co giật thì đều giống nhau mà, nhưng con và Bảo Trân hôm nọ
cũng nghi đây là bố Phi Hòa. Nếu họ là bố con, thì cả hai đều trong tình trạng
đáng thương, cả đứa cháu mù lòa ở đây cũng thế”.
-
“Thôi,
để qua tuần, dì sẽ hỏi thêm về tình trạng của ông ấy, may ra có điều gì đó tốt
hơn, con sẽ đi cùng dì chứ”.
-
“Vâng.
Con cũng muốn giúp bác ấy dì ạ”.
Như
Huyền an tâm đi vào nhà, không thấy dì Nương nói gì đến kế hoạch kia của mình.
Nhưng bác Trương đã về đây, chắc chắn sẽ gặp chị Lan chứ, và chuyện sẽ bại lộ
thì sao. Ôi, Như Huyền ơi, cô như con ngốc vậy.
Chương 19. Sự dối trá
Hôm nay dì Thu hậm hực vì dì Nương giấu chuyện
về ông Trương không cho mình biết sớm. Hơn nữa dì còn mắng chị Lan đã làm to
mọi việc ra như vậy. Sự êm đềm của cộng đoàn chẳng còn. Nay có người hỏi thăm,
mai lại có người chế giễu khi nhà dòng nuôi một con mẹ chửa hoang. Giá mà được
một người đàng hoàng khấm khá một chút có đỡ tủi hơn không, đàng này lại đi với
ông đã có gia đình, không thể nào chịu nổi.
Ngồi trong phòng các cháu, dì Thu nổi cáu làm
đám trẻ ngơ ngác nhìn mà chẳng hiểu gì cả. Một lúc sau, dì Thu tới gần dì Nương
nói tiếp: “chị ơi, em nghĩ mình cứ để chuyện đó qua đi, đừng nhúng tay vào nữa”.
-
“Vì
họ không thuộc về cộng đoàn chúng ta phải không?” Dì Nương tiếp lời ngay.
-
“Đúng
vậy, đó là chuyện thế gian, mình đi tu rồi, để tâm cầu nguyện và chăm các bé
khuyết tật là quá đủ”.
-
“Em
nghĩ vậy à, tâm của em có bình an khi biết người thân đang gặp khó khăn không,
em Lan dù không phải phần tử nhà dòng nhưng em đó đã hết lòng với cộng đoàn và
các cháu ở đây, điều này em biết mà”.
-
“Vâng,
nhưng em nghĩ một mình chị đi là đủ, đừng kéo thêm em Huyền vào cuộc. Em thấy
Huyền từ lâu đã có những nét hướng ngoại, không thích hợp với đời tu lắm”.
-
“Ồ
nói đến đây chị mới nhớ ra, trong nhà dòng có nhắn về là chỉ nhận được đơn xin
khấn của em Bảo Trân, còn Như Huyền thì chưa thấy, chắc là em ấy đang suy nghĩ
về ơn gọi của mình”.
-
“Thì
em đã bảo đó”. Dì Thu khẳng định rồi vươn người đứng lên.
Cả đêm nay, Như Huyền chỉ chợp mắt được một
chút, cô lo lắng về kế hoạch kia. Nếu chị Lan nhận ra sự thật thì cô ấy không
những rất đau khổ mà còn bi lụy cả đời. Mình là người dối trá ư.
Vừa sáng sớm, chị Lan đã đến gõ cửa cộng đoàn
và xin gặp Như Huyền. Vừa nghe dì Thu gọi tên, cô thấy trống ngực cứ thế trào
lên, mặt nóng bừng, cô chạy nhanh ra cổng để tránh đụng dì Thu lúc này. Thấy sự
hồi hộp của Như Huyền, chị Lan hỏi ngay: “Dì Huyền ơi, tối qua nhà con có về và
nói không tặng chị món quà này, vậy quà ấy ở đâu ra vậy Dì. Dì biết ai cho con
mà giấu tên không?”
-
“Có
thật là như vậy không?” Như Huyền cố gắng hỏi lại.
-
“Đúng
mà dì, ai đó đã mạo danh anh Trương để lừa dối con”. Chị Lan thở dài vẻ thất
vọng.
Trong giây lát, Như Huyền trộm nghĩ, có khi nói dối không phải tội. Thế rồi, thật nhanh chóng, cô đã xoay ý nghĩ của chị Lan sang hướng khác và nói: “Chị Lan à, em xin lỗi nhé, nhưng chị có nhớ là anh ấy bị chứng thần kinh không. Có thể anh ấy không nhớ vì đã một tuần rồi mà. Quan trọng là tấm lòng anh ấy, chị đừng suy nghĩ tiêu cực nhé”.
Mắt chị Lan sáng hơn khi nghe lời thanh minh
và nói: “đúng là chị hay suy nghĩ lung tung quá. Thôi chào em, chị về”.
Đợi chị Lan đi khuất, Như Huyền mới hoàn hồn
quay vào nhà. Cô lên thẳng nhà nguyện để xin lỗi Chúa. Ngồi hồi lâu, cô quên
luôn chậu quần áo của mình đang giặt dở tay còn đó.
Không lâu sau, dì Thu đi qua để thu quần áo
gần khô vào bếp hong lửa. Dì liền giúp Như Huyền làm nốt phần còn lại mà không
lời trách móc. Khi phơi áo khoác cuối cùng, thì dì Thu thấy vật gì đó cồm cộm ở
túi áo. Một mảnh giấy gấp nhiều lớp. Ồ đúng hơn, đó là một bức thư. Dì Thu buốt
miệng kêu lên. Sau đó dì nhẹ nhẹ mở tờ giấy ra đọc, lá thư bị ướt nhưng chữ
viết còn rõ lắm. Bất giác dì Thu rùng mình, sau lời thăm hỏi của cậu Phúc là số
tiền cậu ấy gửi: “ Cậu mợ gửi cháu năm trăm nghìn để dùng nhé, cháu có khó khăn
gì thì nói với cậu mợ, dạo này gia đình cậu cũng có chút ít”.
Ôi, dì Thu không tin vào mắt mình khi thấy sự
dối trá lồ lộ ngay cộng đoàn mình. Không thể chứa chấp những người thiếu đạo
đức trong cộng đoàn này được.
Chương 20. Xuất tu
Trước mặt dì Nương, đại diện cộng đoàn. Như
Huyền được gọi tới tức tốc. Lá thư của cậu Phúc được đặt trên bàn như bằng
chứng về sự dối trá của một nữ tu. Ngước mắt lên, Như Huyền thấy dì Nương đang
rất khó chịu, vẻ đôn hậu hàng ngày đã bay tan đâu mất, không thể trách được dì
trong hoàn cảnh này.
-
“Như
Huyền. Em giải thích về lá thư này ra sao, số tiền còn lại em đã làm gì?”. Dì
Nương nhấn mạnh từng chữ hỏi.
Đáp lại dì Nương là một sự im lặng. Như Huyền
thấy sự giày vò tâm trí biết bao và nhủ lòng mình không được nói ra chuyện kia.
Vì nếu nói ra sẽ hại cả đời người, không chừng cả đứa con chị ấy nữa.
Không chịu được im lặng, dì Thu lên tiếng: “chị
Nương ơi, em Huyền không có thiện chí sửa đổi, lời khấn khó nghèo lần này không
khác gì lần trước. Theo chị phải làm sao đây. Quy chiếu theo Can.696 §1, nhiều lần em tái phạm các lời khấn thì có
thể” …
“Được rồi!” dì Nương lên tiếng. “Dì cho em suy
nghĩ đêm nay, ngày mai dì sẽ gửi em về cho cậu Phúc nếu em không thật thà nói
cho các dì biết”.
Đêm nay thì Như Huyền hoàn toàn thức trắng,
trước đó Bảo Trân hết lời khuyên bảo nhưng vô ích. Như Huyền vẫn giữ lập trường
của mình, thà bị đuổi về còn hơn làm người khác buồn. Nhưng Chúa ơi, đời tu của
con dễ dàng tuột mất vậy sao? Cảm giác về nhà thật ghê sợ, bon chen, hắt hủi,
cô đơn… và nhất là Chúa buồn lắm.
Sáng sớm Như Huyền gấp quần áo của mình vào ba
lô và đến chào từng dì ra về. Dì Nương nhìn Như Huyền vẻ thương cảm và nói: “Như
Huyền à, con quyết định ơn gọi của con được chứ, bằng này tuổi tu rồi, con bỏ
Chúa mà về ư?’ Lại một sự giằng co ập đến, cô biết mình không được ở đây nếu
không nói sự thật kia ra. Nhưng nếu nói ra thì… Ngập ngừng một lát, cô trả lời
dì Nương: “Thưa dì, con cám ơn dì nhiều lắm, con cũng xin lỗi dì. Về nhà con sẽ
cố gắng trở nên người tốt”. Nhìn theo bóng Như Huyền, dì Nương trầm tư suy
nghĩ, một vấn nạn đang khúc mắc, tại sao em nó không viết đơn xin khấn, tại sao
lại chấp nhận nghỉ tu dễ dàng như thế? Đây không phải là điều em nó muốn.
Những ánh nắng yếu ớt cũng đang lụi hẳn, lộ ra
mảng mây đen mờ ảo phất phơ từng mảng trên bầu trời. Như Huyền đang bước ra cửa
thì nghe tiếng gọi rất thanh của Bảo Trân. “Huyền ơi, dì Thu bị sao rồi á!”
Như Huyền và mọi người cùng chạy tới, dì Thu
đang toát hết mồ hôi quanh người. Dì đang nằm sõng xoài ra đất, mọi người phải
túm vào khênh dì lên giường vì lúc này người dì cứng đơ, hai tay quặp vào ngực,
còn hai chân thì thẳng cứng, không co lại được, trong khi đó mồ hôi vẫn cứ chảy
khắp người.
Bảo Trân mặt trắng bệch bởi hốt hoảng, bây giờ
đang ngồi thừ người ra vì mệt, miệng lẩm bẩm: “vậy là sao hả dì Nương?”
“Dì bị trúng gió”. Dì Nương vẫn không ngừng
vận động các cơ ở tay và chân và hướng dẫn Như Huyền và Bảo Trân cùng làm với
mình. Khoảng nửa giờ sau, dì Thu bớt chảy mồ hôi, nhưng cả hai chân và tay phải
không cử động được nữa. Như Huyền thấy dì Thu đã tỉnh táo, mắt dì đang nhòe
nhòe một nét mơ hồ vào cõi mông lung của đất trời, mải miết nhìn về phía đám
mây đang lững thững trôi qua khung cửa sổ. Như Huyền bước ra ngoài hít thật sâu
lớp không khí bên ngoài để lấy lại can đảm.
Lúc này bầu trời chưa có ánh nắng, lớp sương
mù còn lờ mờ trên không trung. Những làn gió đung đưa trên tán lá làm những hạt
sương tụ lại rơi lộp độp dưới bóng cây. Như Huyền một lần nữa nhẹ nhàng ra đi
trong sự ngỡ ngàng của dì Nương và Bảo Trân.
Đi dọc về phía hai phiến đá kép hình cánh buồm
sừng sững đứng cạnh nhau từ bao thủa, chẳng ai hỏi tên tuổi nó cả, nên bây giờ
cô ngồi dựa lưng vào đó để trò truyện. Bỗng chốc, hình ảnh Phi Hòa lại hiện về
khi cô nhìn lên phiến đá này. Ôi, anh ấy bị tù chung thân thì còn có hy vọng
trở về được chăng! Đã từ lâu cô coi anh ấy như một người bạn, trân trọng một
tấm lòng đã quảng đại giúp cô, nay là một Kitô hữu được ơn soi sáng trở về.
Nghĩ đến đây cô lại dâng anh cho Chúa, chỉ có Chúa mới trả lại sự công bằng cho
anh ấy.
Rời bến đá kép, Như Huyền đi tiếp xuống bến
cây đa. Hình ảnh các em khuyết tật đang hiện ra nơi đây. Từng đứa với những
dáng điệu cử chỉ, và nhất là khi thi bơi trên mặt nước. Các em có ý chí lắm,
lại vui nữa.
Tất cả như đang vùi vào ký ức để đến ngày nào
đó sẽ trôi vào dĩ vãng. Bước ra khỏi cộng đoàn, Như Huyền mới thật sự cảm nhận
cảm giác mất mát, mọi thứ như tuột khỏi tay vĩnh viễn. Dẫu biết rằng, tình yêu
của cô với Chúa không hề thay đổi, nhưng lúc này sự trống vắng, chông chênh và
cô đơn đang hiện thực làm nỗi đau của con tim đang rung lên từng tiếng nấc. Như
một tội phạm bị đuổi, cô thấy mình không còn gì cả. Quệt nhẹ những giọt nước
mắt đang lăn dài trên má, cô nói với Chúa: “ Chúa ơi, xin cho con sự can đảm”. Lúc
này, chiếc xe đò vừa tới, cô thẫn thờ lên xe về nhà.
Chiều nay, cảnh vật như đang im lìm, nghỉ ngơi
để chìm vào giấc ngủ. Như Huyền đến bên mộ mẹ mà khóc: “Mẹ ơi, con xin lỗi mẹ,
con xin lỗi mẹ, con là con gái hư”. Từng tiếng nấc ngèn ngẹn giờ như muốn bung
bứt hết ra để hòa thêm vào bản nhạc của gió sông. Bên bờ sông Hồng, thỉnh
thoảng những làn cát mỏng bay lên, cuộn tròn rồi từ từ thả xuống. Những cái
soáy nước màu hồng nhạt như muốn hút mọi vật xuống dưới đáy sông, để lớp cát
mịn chôn vùi vĩnh viễn. Xung quanh ngôi mộ, những bụi hoa Lưu ly tím đang rộ
những cánh hoa, chúng vươn cao, che kín lớp vôi trắng đã bạc màu. Thình lình,
một bàn tay to, chắc đặt trên vai Như Huyền và nói: “về nhà thôi cháu”!
Giọng cậu Phúc thật nhẹ nhàng và ấm áp làm cho
Như Huyền thấy chút an ủi. Cậu Phúc sách ba lô đi trước, Như Huyền lẽo đẽo theo
sau. Về tới cổng, cậu Phúc nhắn với cô: “Cậu thấy dì Nương gọi điện báo tin, lẽ
ra cháu phải về đến nhà hai tiếng trước rồi. Cậu nghi là cháu đang ở ngoài này,
quả nhiên như vậy. Thôi cháu ngủ nghỉ vài ngày cho khỏe đi, đừng suy nghĩ gì
nhé, mợ Nhung đi vắng tuần sau mới về”.
Chương 21. Cuộc sống thôn quê
Hưởng mùa hè bên sông Hồng thật thích thú,
nhất là những cơn gió về đêm, lồng lộng, ào ạt đẩy những con sóng ập vào bờ.
Ven con đê, lổm chổm những cồn đất phù sa làm cho dòng sông nhiều chỗ bị lấp
đầy, lưu lượng chảy kém làm những con đò ngang từ thôn bên này qua thị xã bên
kia cũng khó. Cả ba tháng nay không có hạt mưa nào, những chiếc phà lớn không
còn bến nước nào phải tạm nghỉ hưu, chỉ có những con đò nhỏ và có chỗ có thể đi
bằng thuyền. Dầu vậy lượng người qua đò vẫn đông như thường lệ, bánh lái cánh
quạt của con đò thường hay bị kẹt làm tắc nghẽn những chuyến đò khác. Nhiều
người chạy xe máy men theo con đê xuôi xuống cầu Phong Châu cách đó 10km để
tránh tình trạng này.
Như Huyền đã làm quen với việc buôn bán nơi
đây. Chỉ hơn một tháng ở nhà, Như Huyền đã gây thiện cảm với chị Thu Hà. Chị từ
nơi khác chuyển đến lập cư nơi đây được gần một năm, hai chị em nhờ vả nhau đi
lấy mặt hàng về bán cũng đủ trang trải cho đứa con hơn một tuổi của mình.
Hôm nay ngày lễ giỗ của mẹ Như Huyền, cô nghỉ
bán hàng để tham dự thánh lễ và ra thắp hương. Một bó hoa lưu ly tím to và rất
tươi đang để trên mộ, cô nghĩ: “Cậu Phúc ra từ lúc nào mà sớm thế nhỉ, một bó
hoa tươm tất có sẵn đây rồi! Cắm xong nén nhang, cô đi dạo quanh đó, cách mộ mẹ
chừng 5m.
Đang miên man, Như Huyền không tin vào mắt
mình khi thấy bác Trương đang từ từ đi tới, sao bác ấy biết mình đã về đây! Dù
còn cách xa chừng 4m, cô đã thấy ánh lên một niềm vui, bởi cô rất muốn gặp bác
trong những lúc này. Không chần chừ, Như Huyền chạy tới và chào trước. “Cháu
chào bác ạ!”
Đáp lại lời chào thật hồn nhiên của Như Huyền
là một nét mặt nghiêm nghị, đầy trang trọng nhưng lại cuốn hút cô muốn mở lòng
để đối thoại với bác. Trong tư thế đứng thẳng, bác trịnh trọng nói: “Bác muốn
nói chuyện với cháu!”
Như Huyền cảm thấy chút bàng hoàng nhưng cô
trấn tĩnh ngay, lấy lại nét đoan trang trước mặt một con người đáng nể trọng mà
cô lần đầu được vinh dự tiếp chuyện. Cô gật đầu tỏ vẻ hài lòng và nói: “Vâng ạ,
cháu và bác có thể ngồi tại đây”
Tất nhiên là được. Nói rồi ông ngồi xuống trên
một thảm cỏ nhỏ đối diện Như Huyền. Đổi sang ánh mắt hiền từ, bác ấp úng hỏi: “dì
là người ở đây à?”
-
“Vâng
ạ. Còn bác?”. Chẳng phải bác người Lạng Sơn sao? Cô kèm thêm nụ cười nho nhỏ
tạo sự thân thiện
-
Không.
Bữa bác lên đó chút việc. Nói đến đây, bác Trương ngập ngừng, nhưng Như Huyền
đã nói thêm vào luôn… “để tìm sự chia sẻ, và bác đã gặp chị Lan”.
-
“Đó
cũng là cơ duyên, nhưng bác còn nỗi khổ tâm khác. Bác luôn khắc khoải đi tìm
một con người mà bác đã ruồng rẫy hơn hai mươi năm qua”.
-
“Một
con người, phải chăng là”….. Như Huyền như chú ý hơn thái độ của bác Trương lúc
này.
-
Bác
Trương đáp gọn: “Là vợ và đứa con của cô ấy!”
Liếc nhanh về phía dòng sông, Như Huyền nhớ
lại câu chuyện về bác Trương mà dì Nương đã kể cho cô nghe. Sao ông ấy lại chia
sẻ với mình nhỉ.
-
“Bác
đã có một gia đình hạnh phúc”. Giọng bác có vẻ trầm buồn hơn, Như Huyền nhẹ
nhàng bó đầu gối lại, hai tay ôm lấy đôi chân để lắng nghe. Bác Trương buồn bã
nói tiếp: “Chính bác là người gây ra đau khổ cho mẹ con họ. Cùng một lúc, cô ấy
phải chịu hai sự hành hạ khốn đốn cả về thể xác lẫn tâm hồn, một là sự dè bỉu
của dân làng, hai là sự hắt hủi chạy trốn của người chồng xấu xa này. Bác biết
mẹ con họ phải lang thang khắp nơi để xin tình thương của mọi người, nhưng
chẳng ai cho. Đứa con gái nhỏ cũng phải theo mẹ đi mót những bông lúa, củ
khoai, củ lạc để sống qua ngày. Gốc rạ và lưng con bò là chốn thân quen của nó,
nó phải luôn tranh từng đống phân bò với các bạn, nó luôn bị đám bạn gọi là con
không bố. Lúc ấy, bố nó biết nhưng lòng tự trọng quá cao, không thể hạ mình để
làm hòa với mẹ nó. Sau 3 năm im bặt. Bác nhận ra sự sai trái của mình, bác cần
một lời xin lỗi nhưng không thấy mẹ con họ đâu hết. Họ đã đến một nơi xa rất
xa, dường như cả đời này bác không còn cơ hội gặp lại họ. Nói đến đây, cổ họng
bác bị nghẹn lại như có vật gì đang mắc ở giữa”.
Thời ấu thơ, ôi thời ấu thơ. Như Huyền nghèn
nghẹn thốt lên. Cô đứng lên, nhớ lại những tổn thương của quá khứ bản thân.
Quay sang bác Trương, cô cố lên tiếng: “Bác đang đi tìm người vợ trước, hẳn
nhiên bác còn yêu người ấy. Thế sao bác lại làm tổn thương chị Lan. Vậy bác
muốn gì?”
-
“Bác
là một người tội lỗi, tội này chồng chất lên tội kia”. Im lặng một lúc. Bác lên
tiếng.
Sau đó là tiếng thở nhẹ nhàng như trút được
khối chì đang đè nặng quả tim từ bấy lâu nay. Như Huyền ngồi im đó nghe Bác
Trương kể về cuộc đời của mình, có những chi tiết không đồng nhất với nhau,
ngay cả quê quán của mình bác cũng không còn nhớ. Như Huyền hiểu điều đó nhưng cô
vẫn lắng nghe để bác Trương thoải mái chia sẻ.
Sợ bệnh của bác Trương có thể phát bất cứ lúc
nào, nhất là ngồi bên gió sông như vậy. Cô xin phép ra về.
Chương 22. Bố con gặp nhau
Dì Thanh biết chuyện Như Huyền bị đuổi về thì
cố gắng thu xếp công việc để đến gia đình xem rõ sự tình. Cả ngày dì giáo huấn
và khuyên bảo cô nên xin trở lại nhà dòng và trình bày rõ sự thật và lòng khao
khát đời tu của mình. Thấy không có tiến triển, dì Thanh nhất quyết ở lại đây
cho đến khi nào Như Huyền đồng ý trở lại đời tu.
Hôm sau Như Huyền, và cậu Phúc dẫn dì Thanh ra
mộ bà Trầm để thắp hương và lên kế hoạch xây mộ lại. Như Huyền đon đả chạy
trước dẫn đường, vừa tới nơi cô nhìn thấy bó hoa Lưu ly còn mới đang ở đó. Giật
mình, cô cầm bó hoa chạy thật nhanh về phía cậu Phúc đang tới gần đó, tức tốc
hỏi. “Chẳng phải cậu đặt bó hoa này ở đây sao?”
-
“Không
có, giờ cậu mới tới mà”.
-
“Lạ
quá! tuần trước cũng có bó hoa như vậy, cháu tưởng là cậu mua cho mẹ cháu”.
-
“Có
một ai đó rất quan tâm đến mẹ cháu. Vừa nói, cậu Phúc vừa ngó quanh xem có ai
khác không”.
Xa xa, một tiếng cười vọng lại, làm cho mọi
người đều hướng sự chú ý về phía bụi chuối. Một người đàn ông đang nằm ngả
nghiêng, mặt cúi xuống đất, thỉnh thoảng lại ngửa mặt lên trời cười.
Bất giác, một cơn sóng lạnh chạy thật nhanh,
giật mạnh các cơ gân trên mình, cậu Phúc chạy tới và kêu to: “anh Trung!”
Nhìn thật nhanh về phía Như Huyền, cậu Phúc
định nói điều gì đó nhưng lưỡi như bị cột lại, sự bất ngờ làm cậu Phúc không tự
chủ được nữa.
Cùng lúc ấy, Như Huyền cũng ngồi xuống để đỡ
bác Trương và nói với cậu: “cậu cũng biết bác Trương này à?”
Một lần nữa cậu Phúc lại run run người. Dì
Thanh cũng động viên cậu Phúc bình tĩnh để giúp người bệnh này trước đã.
-
“Như
Huyền!” một tiếng gọi rất thanh mặc dù cậu cháu đang ngồi gần đó. Khoảng một
phút sau, cậu Phúc nói tiếp: “Như Huyền ơi, cháu có biết người này là ai không?.
Bố cháu đó! Bố cháu tên là Chu Cao Trung”.
Vừa nghe thấy tiếng bố cháu đó, Như Huyền giật
mình đứng lên.
-
“Bố
của cháu.
Như
Huyền lắp bắp lập lại, đôi mắt cô lộ vẻ kinh hoàng tột độ. Cô nhớ lại những gì
bác đã chia sẻ, và người bị vùi dập chính là mẹ con mình thì lòng quảng đại
bỗng chốc vụt biến”.
Nhìn thấy cảm xúc đang hiện rõ trên khuôn mặt
Như Huyền làm cậu Phúc bối rối, nhưng cậu và dì Thanh vẫn nhìn lên. Hy vọng, chờ
đợi.
-
“Không
thể. Không thể nào! Giọng Như Huyền lạc hẳn đi, cô gục đầu xuống gối mà khóc.
Một xúc động mạnh mẽ khiến cô vỡ ào như bờ đê bị dòng sông mạnh mẽ vùi lấp,
khiến bao tắc ngẽn đều tan chảy theo dòng nước”.
Bỏ mọi người đó, Như Huyền chạy ra một đoạn
khá xa rồi khóc thật to. Thấy vậy, dì Thanh kéo anh Phúc và chỉ về phía Như
Huyền, nhưng anh Phúc ngăn dì Thanh lại và nói: “dì ơi, dì cứ để cháu nó khóc
đi, chính nước mắt sẽ rửa được nhưng bứt rứt trong lòng để rồi lộ ra sự can đảm
vốn có của cháu. Đón nhận một thực tại bất ngờ quả nhiên không dễ, nhưng cháu
nó sẽ biết hành động thế nào mà”.
Một lúc sau, Như Huyền đứng lên, đi nhanh về
phía cậu Phúc. Nhìn sang ông Trương mà cô vẫn gọi trước đây, cô chợt thấy một
đôi mắt đang tha thiết theo dõi mọi cử chỉ của cô từ lúc nãy đến giờ. Những
đường gân trên mặt đang rung lên như vừa bần thần vừa trông ngóng. Đôi tay
buông thõng xuống, rồi khẽ dơ lên thay cho một lời thành khẩn. Tất cả dáng điệu
ấy làm nhồn nhột tâm hồn cô, đôi mắt ông như đang cọ sát làm thức tỉnh con
người cô lúc này.
Bước gần hơn, Như Huyền từ từ đưa đôi mắt mình
lên nhìn ông Trung.
Thấy vậy, giọng cậu Phúc vang lên mạnh mẽ, rồi
đặt bàn tay lên vai Như Huyền: “Cháu! Cháu hãy nhớ lại những lời cặn dặn của mẹ
năm xưa”.
Quay sang ông Trung, anh Phúc chậm dãi nói: “
anh Trung ơi, đây chính là Như Huyền, con của bà Trầm, cũng là con gái anh đó”.
Lúc này, ông Trung như không đứng vững, lại ngồi
phệt xuống đám cỏ xanh. Ông cố gượng giọng nói nhưng không thành tiếng.
Vừa lúc đó, Như Huyền chợt nhận ra sức khỏe
ông có vẻ yếu hẳn đi, và căn bệnh co giật có thể xảy ra nếu ông chấn động mạnh.
Lập tức cô bước lại sát bên ông.
Mặt giáp mặt. Như Huyền thấy rõ những đường
gân nâu đen chạy dọc dài từ mặt xuống cổ. Một gương mặt khá thanh tú bị che bởi
những vết cặn của lấm lem cuộc đời. Đôi mắt kia, hốc hác và u buồn ảm đạm bị
bao quanh bởi lớp quầng thâm rộng. Chỉ cần nhìn đến đó, tâm hồn Như Huyền bỗng
thấy giao động mạnh, cô cảm thấy sự tha thứ đang lên tiếng đòi buộc cô phải
khởi hành ngay để cho hồng ân tình thương đi bước trước. Rồi từ sâu thẳm con
tim, miệng cô chợt vang lên tiếng gọi thật to: “Bố!”
Ông Trung như không tin vào tai mình, sự vui
sướng đang lan tỏa làm ấm áp cõi lòng. Ông nhẹ nhàng đưa hai tay ra đón lấy cô
và nói: “lại gần bố chút nữa đi”.
Không để ông đợi lâu. Như Huyền ôm chầm lấy bố
và nói: “Bố ơi, từ nay bố đừng xa con nữa nhé! Lần đầu tiên con được sống cảm
giác có bố”.
-
“Bố
không xa con nữa đâu. Con gái ạ”.
-
“Có
cậu Phúc và dì Thanh ở đây, bố muốn gặp mẹ con, không biết mẹ con có đón nhận
bố?”
-
“Mẹ
con!” Như Huyền nhìn thật nhanh về phía ngôi mộ và nói: “Mẹ đã về với Chúa rồi,
mẹ đã tha thứ cho bố và mong từng ngày thấy bố trở về”.
-
“Bà
ấy đã chết!” Ông Trung dò dẫm nhìn từng biểu hiện trên khuôn mặt cậu Phúc và dì
Thanh cho đến khi họ gật đầu.
“Vậy bà ấy đã xa chúng ta thật rồi”. Ông Trung
run run người, đưa ánh mắt đau đớn nhìn qua Như Huyền đang giữ chặt bố bên
mình. Ngồi phệt xuống đất, ông Trung cất giọng trầm buồn: “thời gian gần đây, bố đã tìm đến ngôi mộ
đầy hoa Lưu ly này, một loài hoa nhắc đến những kỷ niệm của bố và mẹ năm xưa,
một sự nhớ nhung tràn về làm bố luôn để tâm đến mẹ con”.
-
“Vậy
bây giờ chúng ta qua bên ngôi mộ đi”. Như Huyền dìu bố đứng lên.
Cậu Phúc dẫn ông Trung tới ngôi mộ.
-
“Anh
Trung à, vợ con em cũng xin lỗi anh nhiều lắm, sự vô tâm của chúng em đã đưa
anh đến tình cảnh này”. Cậu Phúc nắm chặt tay ông Trung với giọng tha thiết.
-
“Anh
cũng có lỗi nhiều lắm, anh đã bỏ mẹ con họ dở sống dở chết trong sự gièm pha
của mọi người”. Ông Trung bắt đầu lên tiếng.
Ngay sau đó, dì Thanh bước tới giữa hai người
và quay sang nói với Như Huyền: “bây giờ thắp hương cho chị nhà đi, sau đó đón
bố về đoàn tụ với gia đình”.
Những con sóng vẫn dập dềnh lên xuống rồi ập
vào bờ, bên những luồng gió thoảng, những con đò vẫn xuôi dọc theo nhịp điệu
cuộc sống. Men theo rìa sông, Như Huyền cùng bố nhẹ nhàng đi dạo. Thỉnh thoảng
có những vũng nước nho nhỏ nằm thoi thóp giữa lớp cát mịn đang hút cạn từng
ngày, nhưng vẫn giữ được độ ẩm làm cho bãi ngô bên cạnh đủ sức vươn lên. Tất cả
mọi cảnh vật và đặc biệt là sự hiện thân của người bố làm cho cô cảm thấy một
sự ổn định, sự hạnh phúc vượt trào khi nếm cảm nụ cười giọng nói và tình yêu
quý báu của bố. Nhưng chân thực mà nói, thì hình ảnh về đời tu vẫn phơn phớt
trong đầu, chờ một cơ hội để thể hiện sự chân thực của cô.
Chương 23. Đoàn tụ gia đình
Ngập ngừng trong sự lo lắng về những chuyện
đêm qua làm Như Huyền chập chờn bên cửa sổ. Trời hãy còn sớm lắm, Như Huyền đi
dọc theo mép sân dưới ánh trăng còn lờ mờ soi lối. Cậu Phúc cũng đang ở đó, bất
giác Như Huyền nhận ra điều này và không tỏ sự bối rối khi chính cô đang muốn
chia sẻ một bí mật với cậu. Dường như nhận ra điều đó, cậu Phúc đã chủ động
trước:
-
“Cháu
có điều gì muốn nói với cậu?”
-
“Vâng.
Về bố của cháu cậu ạ”.
-
“Ừ.
Cậu hiểu, cháu phải ở bên bố luôn, vì bệnh của bố có thể sẽ phát bất cứ lúc nào”.
Vỗ vỗ bàn tay to bành của mình lên vai Như Huyền để biểu lộ sự đồng cảm, điều
này càng làm cho cô xúc động mạnh hơn, nên cô nói tiếp.
-
“Cậu
ơi, thật ra bố cháu đang có một người con trai…”
Bỗng mắt cậu sáng ra. “Sao cháu biết!” Cậu
Phúc ngắt lời Như Huyền vì nhớ tới đứa con của ông Trung với chị mình mà trước
đây ông đã đưa nó đi theo, nên nói: “Đó là anh trai của cháu, cháu đã nhận anh
em rồi à?”
Vừa nghe cậu nói, cô giật mình nhìn cậu: “cậu
hiểu sai ý cháu rồi, đứa con trai ấy chưa đầy một tuổi”.
Vậy là người con khác, cậu Phúc suy nghĩ một
lát rồi ngồi lắng nghe Như Huyền kể về chị Lan. Nghe xong, cậu thấy một sự tác
động mạnh mẽ, lòng thương cảm lên đến tột độ, nên nói: “sao cháu không nói cho
cậu biết sớm. Ngay bây giờ, cậu sẽ bắt xe đón mẹ con họ về đây, gia đình mình
phải nâng đỡ cô ấy trong tình cảnh này”.
Thật ngạc nhiên, Như Huyền không ngờ mọi
chuyện lại êm xuôi như thế, mợ Nhung không có ý kiến gì, lại sẵn sàng đi chợ
làm cơm để đón thành viên mới.
Hôm nay gia đình thật nhộn nhịp. Hai đứa con
của mợ Nhung theo lệnh bố quét dọn sân bãi nhà cửa, dì Thanh điều động các công
việc trong nhà, Như Huyền phụ mợ Nhung nấu bếp nhưng vẫn để mắt đến bố, chẳng
bao lâu căn nhà đã tươm tất gọn gàng mọi thứ.
Đầu giờ chiều ngày thứ ba, không khí náo nhiệt
hơn bao giờ hết. Từ ngoài cổng mọi người đã nôn nóng chờ đợi, dường như sự thấu
hiểu về góc độ tâm hồn đang trào tràn ra cả thái độ nhân cách bên ngoài, bởi sự
quan tâm đã đánh thức và lây lan, tô đậm nét những hiện thực cuộc sống. Ông
Trung đứng giữa Như Huyền và mợ Nhung, hai thằng nhỏ thì chốc chốc nghe thấy
tiếng xe khách lại chạy ra đầu dốc xem phải người nhà mình không.
Vừa xuống xe, chị Lan chạy tới: “Anh Trung, Dì
Huyền, chị Nhung… con nhớ mọi người lắm!”. Cậu Phúc bế thằng cu nhỏ xuống xe,
đưa cho chị Lan, rồi quay lại sách mấy giỏ lỉnh kỉnh, mợ Nhung cũng đôn đáo
chạy lại giúp một tay cho nhanh chóng.
Ngôi nhà hôm nay như rộng và thoáng mát hơn, thật
rõ ràng ai ai cũng lộ rõ niềm vui chân thực, hoàn hảo và mãn nguyện. Cậu Phúc,
chủ ngôi nhà, chủ động đến từng người, nắm tay và trao đổi thân tình. Đến chỗ
Như Huyền, cậu chợt nhớ tới câu chuyện mà hôm trước bất chợt Như Huyền đã chạm
đến.
Mấy hôm nay cậu áy náy và tự cho người đi tìm
cậu bé đó. Nó đã chết rồi chăng? và đó là nguyên nhân khiến anh Trung bị bệnh
thần kinh? Thế thì đừng nói cho Như Huyền biết, nó sẽ đau khổ lắm, tội nghiệp.
Vừa nghĩ đến đó, cậu chợt nhìn thấy Như Huyền đang đi tới. Thật nhanh, cậu đi
về phía phòng anh Trung để tránh mặt. Bên trong, thằng cu nhỏ đang cười với bố
mẹ, một hạnh phúc nhỏ đang chớm hình thành. Ngước lên trời, anh thầm tạ ơn Chúa
và lặng lẽ về phòng của gia đình mình.
Vừa bước tới cửa, anh thấy Như Huyền và dì
Thanh đang đi dạo gần đó. Dì Thanh có nói chuyện với anh về việc trao đổi với
Bề trên cho Như Huyền trở lại nhà dòng, nhưng cậu chẳng muốn chút nào, nghĩ đến
anh Trung, anh muốn cô ở lại chăm sóc cho anh ấy, nên anh đã giấu chuyện này
không nói cho cô biết. Bây giờ dì Thanh đang ở đây, chắc dì sẽ nói chuyện đó,
mà điều anh không mong muốn sẽ xảy đến.
Chương 24. Thư báo
Trời hửng sáng, chị Thu Hà nhà bên cạnh hớt
hải chạy sang cho Như Huyền mấy bó rau ngót rừng, chồng chị ấy mới về, và đây
là món quà rất quý. Trước tấm lòng chân thành đó, Như Huyền và dì Thanh cùng
sang bên gia đình chị để cám ơn. Nghe nói chị không theo đạo gì nhưng rất tốt
bụng, nên đây là dịp để dì Thanh nói về Chúa cho cả gia đình.
Biết nhà có khách, chồng chị Hà liền chạy ra
tiếp đón. Cùng lúc ấy, anh chồng và Như Huyền cùng giáp mặt nhau. Phản xạ tức
thì của anh chồng khiến mọi người đổ dồn sự chú ý. Trước mặt Như Huyền, anh lắp
bắp một cách ú ớ không thành tiếng, đôi chân muốn bỏ chạy nhưng bị như bó chặt
lại. Mất hết vẻ oai phong, anh tựa người bên thành cửa, rồi từ từ thõng người
thả xuống kèm theo sự bối rối tột độ trên khuôn mặt.
Dì Thanh khẽ cựa tay Như Huyền nói nhỏ: “con
biết anh này à?”
-
Đáp
lại trong tiếng gió: “Vâng ạ”
-
“Con
có gây lỗi gì với anh ta không?”
-
“Thưa
dì…..”
Như Huyền rơi vào tình trạng hoang mang, những
ký ức về Phi Hòa lại tràn về, anh ấy bị oan ư?. “Ôi, con người hôm mình thấy ở
trại giam không phải là một bóng ma, rõ ràng anh ta đang sống”, Như Huyền nói
nhỏ chỉ để mình cô nghe. Cô thấy điều gì đó bất ổn nên xin phép chị Hà ra về và
cám ơn về món quà mà anh chồng đã đem từ nơi xa về.
Về tới nhà, Như Huyền thấy chị Lan đang lúi
húi làm gì đó ở góc vườn. Không đợi sự tò mò của cô lên tiếng, chị Lan đã chạy
lại khoe cây hoa Lưu ly mà chị chăm bón nay đang ra rất nhiều hoa. Giờ đến Như
Huyền ấp úng, cô không biết nói gì, chỉ ậm ừ qua chuyện rồi chạy thẳng vào
phòng. Đứng phía sau, dì Thanh lắc đầu không hiểu. Nơi cô bé này, đang ẩn giấu
điều gì chăng?
Ăn cơm trưa xong, dì Thanh định kéo riêng Như
Huyền hỏi chuyện, nhưng kìa, vợ chồng chị Hà đã dắt tay nhau tới. Chị vợ đi
trước, còn anh chồng lẽo đẽo phía sau. Bước vào nhà, chị Hà ngập ngừng: “Hôm
nay vợ chồng chị qua đây để xin lỗi Như Huyền, mong em đừng tố cáo chồng chị
với pháp luật”.
Như Huyền đưa mắt nhìn anh chồng đang lầm lũi
gục mặt xuống đất và nói: “sao anh lại nói dối mình đã chết, anh còn sống sờ sờ
ra đây mà”. Như Huyền không kìm được lòng mình nên nói một tràng thật nhanh.
Người cần được xin lỗi không phải là em đâu chị Hà ạ.
Cậu Phúc và mợ Nhung trố mắt nhìn nhau không
hiểu.
Bước tới chỗ Như Huyền, dì Thanh hỏi nhỏ: “con
biết chuyện gì à?”.
-
“Vâng
ạ”. Như Huyền gật đầu nhè nhẹ .
Từng lời anh chồng chị Hà vang lên là từng
nhịp thở chứa đầy sự day dứt, anh đã cùng bạn ém nhẹm mọi việc để tố cáo người
khác, bắt đầu từ chuyện bạn bè với Phi Hòa đi phá rừng đến khi hoàn thành mưu
đồ của mình, đẩy anh ấy vào tù, rồi gia đình khăn gói bỏ trốn xuống nơi này để
sinh sống.
Tiếp lời chồng, chị Hà nhìn sang anh Phúc vẻ
van nài trong nhịp điệu dồn dập: “anh có thể giúp gì được không, chồng em phạm
tội vu oan cả đời người khác, lại giả chết, pháp luật sẽ không tha, giờ nhà em
phải làm sao”.
-
“Anh
sẽ cố gắng giúp gia đình em, em đang có con nhỏ chắc cũng được khoan hồng,
nhưng phải đi thú tội để anh chàng kia được tự do chứ”. Cậu Phúc quay sang an
ủi vợ chồng chị Hà. Ngập ngừng một lát, cậu phúc nói tiếp: “Anh sẽ đi theo giúp
gia đình em”.
Bóng đêm đổ ngập khắp đồng quê. Trời hôm nay
thật oi, dấu hiệu sắp có cơn mưa lớn! Anh Phúc đang rải bước nhỏ một mình trên
lớp cát mịn cách khu vườn nhà khoảng năm bước chân, thỉnh thoảng một chút gió
thổi đến, nhè nhẹ phe phẩy tàu lá ngô gần đó. Mắt anh ngước lên trời như thầm
thĩ xin Chúa ban mưa xuống, chợt anh nhớ đến dì Thanh. Đúng rồi. Dì Thanh biết
anh chàng Phi Hòa kia, có điều gì đó mà anh cảm thấy liên quan đến cháu gái
mình, không đơn giản như lời chị Hà kể sáng nay.
Cùng lúc ấy, dì Thanh từ trong nhà bước ra. Có
lẽ trời nóng quá nên dì muốn ra sân cho mát. Vừa gặp dì, anh Phúc liền hỏi: “Dì
biết người đang ở trại giam X, tên Phi Hòa?”
-
“Nó
là ân ân cứu mạng của Như Huyền, anh còn nhớ vụ tai nạn ở cầu Trung Hà ngày xưa”.
Dì Thanh trả lời.
-
“Vậy
thì con hiểu rồi”. Anh Phúc dõng dạc nói.
Dì Thanh cắt ngang: “anh hiểu”!
-
“Vâng”.
Anh Phúc tiếp lời. “Và con sẽ giúp cháu nó đạt điều mong muốn”. Ngưng một lúc
anh nói tiếp: “Hai ngày nữa con sẽ đưa vợ chồng em Hà đến trại giam X để giải
quyết việc này luôn”. Vừa nói anh vừa nở nụ cười mãn nguyện: “Dì thấy kế hoạch
của con được chứ”!
-
“Anh
nghe ai nói hả?” Dì Thanh lắc đầu nói tiếp: “Dì hiểu Như Huyền mà, con bé không
có ý gì với Phi Hòa, chỉ là nó muốn giúp đỡ chú ấy để đền ơn mà thôi”.
-
“Cứ
cho là như thế, nhưng giờ cháu nó xuất tu rồi thì phải nghĩ đến chuyện này chứ”.
Anh Phúc lập luận lại.
-
“Không.
Nó vẫn đang tu mà, ngày mai dì về Hội dòng, dì sẽ có cách cho nó trở lại”. Dì
Thanh quả quyết.
-
Anh
Phúc lên giọng: “Ôi, đừng dì ơi. Con xin dì để cháu ở nhà với bố, bố con nó
nhận nhau chưa được bao lâu lại phải xa cách thì thật đáng tội”.
-
“Anh
đừng ép Như Huyền, cứ để nó đi con đường nó đã chọn”.
Nói rồi, dì Thanh bỏ vào nhà, dì gọi Như Huyền
nhưng không thấy cô đâu hết. Cảm giác lo lắng chợt xâm chiếm dì. Nó có nghe
cuộc đối chất của hai người vừa rồi, nó đã đi đâu giữa trời tối thế này. Nghĩ
tới anh Phúc, mình vừa bỏ không nói chuyện giờ lại phải nhờ tới. Anh Phúc vẫn
còn đứng đó, bước sát tới, dì Thanh khẽ vỗ vai nói nhỏ: “Như Huyền không có
trong nhà, dì đi một vòng, cả ông Trung cũng không thấy”.
-
Anh
Phúc giương mặt tỏ vẻ kênh kiệu và nói: “có thể họ đi dạo”.
-
“Dạo
gì mà dạo. Anh nhìn ra bãi cát phía trước, có bóng người nào đâu”.
Nghe đến đây, tự nhiên anh Phúc thấy chân mình
như không vững, vội kéo tay dì Thanh về phía bãi cát phía trước.
Xa xa, thấy bóng người lom khom đi chệnh
choạng. Anh vội chạy tới, dưới bóng trăng mờ, anh nhìn thấy Như Huyền. Còn anh
Trung, mặt mũi vục đầy cát cũng đang lảo đảo vịn vào con gái. Nhìn hai bố con
mà anh thấy thật thương tâm. Đứa cháu gái thật can đảm, nó hãnh diện biết bao
khi biết mình có bố và không rời xa bố nửa bước. Nó sẽ bỏ ý định trở về nhà
dòng để chăm sóc bố.
Anh Phúc và dì Thanh chạy tới dìu ông Trung
vào trong nhà, ông vừa qua cơn co giật, gương mặt phờ phạc như mới bị ai dượt
đuổi trở về.
Tối hôm đó, Như Huyền chăm sóc bố. Nhìn gương
mặt thân thương của bố, cô dấy lên sự rung cảm bản thân, sư quý trọng và lòng
yêu mến vẫn là sự ưu ái của tâm hồn cô. Hai bàn tay nhỏ bé ôm trọn bàn tay thô
ráp của bố, nhưng thật kỳ diệu làm sao. Nhẹ nhàng cô áp tay bố lên má mình. Từ
chiều sâu nội tâm, cô cảm nhận tình yêu của người bố vượt trào khỏi ranh giới
thời gian, chính bệnh tật của bố là một thực tại để diễn tả những cung bậc của
tình yêu ấy.
Từ bàn tay chai sạn ấy, Như Huyền thấy hơi ấm
của bố lan tỏa sang bàn tay cô. Đồng thời với sự cảm nhận ấy, mắt ông mở ra với
vẻ mặt tươi sáng hẳn lên, tâm trí trở lại bình thường. Suốt đêm đó, hai bố con
cùng thức để nói chuyện. Ông khuyên Như Huyền hãy trở lại nhà dòng nếu được
gọi, hãy trung thành với chọn lựa của mình, vì đó là con đường đúng đắn.
Ánh bình minh ngày mới vừa ló rạng, thật diệu
huyền làm sao, một chút gió se se làm Như Huyền bỗng thấy một niềm hứng khởi dâng
lên trong người. Cô rất muốn chạy ra bãi cát để tận hưởng khúc ru của gió. Thật
ra, sự day dứt khi phải quyết định rời xa bố để trở về nhà dòng vẫn là ngọn lửa
ngấm ngầm cả trí hồn cô bấy lâu nay. Trước mặt nước hồng hồng của dòng sông
đang chảy, Như Huyền cảm thấy mình nhỏ bé quá, cô ngước mắt lên trời xin Chúa
dẫn dắt theo đúng đường lối của Ngài. Nếu nhà dòng không gọi thì con sẽ ở với
bố cả đời, nhưng nếu nhà dòng gọi lại thì con sẽ…..
Vừa lúc đó, Như Huyền nghe có tiếng ai đang
gọi mình. “Ôi Bố!” Như Huyền kêu lên: “Bố gọi con!” rồi cùng chạy lại gần ông.
-
Vừa
thở, ông Trung vừa dơ phong thư lên chạy tới tấp, khoe: “Về nhà đi con”.
Mợ Nhung, mẹ Lan đều tụm đầu lại đọc đi đọc
lại văn thư cho Như Huyền nghe. Mợ Nhung ôm chặt Như Huyền và nói: “Vậy là cháu
đã mãn nguyện rồi, nhà dòng đã nhận lại cháu!”
Chị lan cũng tiếp lời và nắm chặt tay khuyên
nhủ: “tu tốt nhé con!”
Thoáng phút chốc, mọi ánh mắt đổ dồn về cậu
Phúc, anh đứng im không phản ứng gì. Mợ Nhung ngoắc tay hỏi nhỏ: “anh làm sao
vậy?”
-
Việc
này phải hỏi anh Trung đã. Anh Phúc chép chép cái miệng đưa mắt nhìn ông Trung.
Ông Trung bước gần chỗ Như Huyền và nói: “Con
trở lại nhà dòng đi, bố sẽ cầu nguyện cho con”.
Tối hôm đó, Như Huyền đứng một mình trên bãi cát. Từ ánh điện lờ mờ chiếu qua, Cô thấy mình đang đứng trước bãi biển của Nhà Dòng, nơi có những trận sóng cuồng phong ào ào cả đêm, tựa như tiếng cơn mưa rào ngoài miền Bắc của tiết trời tháng 5. Đặc biệt nơi đó có các chị em đang chờ đón để chung một lý tưởng dâng mình cho Chúa. Lòng cô chợt dâng lên niềm cảm xúc vì tình yêu của Chúa, quả thực con đường theo Chúa không êm trôi chút nào, nhưng lại vô cùng thích thú.
Chương 25. Tình gia đình
Sau hai tuần, mợ Nhung dẫn Như Huyền đi chào
các bác để lên đường. Lần này mợ hãnh diện lắm vì nghe nói mợ sắp được vào miền
nam xa xôi để dự lễ khấn của cháu gái, nhất là cả giáo xứ lần đầu tiên có người
đi tu. Ông Trung rất tỉnh táo, ông nhớ hết họ hàng máu mủ, nên hãnh diện đi
tiên phong để dẫn đường.
Ở bến
đò, vài người đang cố gắng đẩy con đò ra chỗ có nhiều nước để khởi động máy.
Thấy vậy, ông Trung chạy xuống, cùng gọi mọi người tới giúp. Quay mặt về phía
con gái, ông mỉm cười đầy phấn chấn: “ Cố lên con”.
Chiếc đò vừa đủ nước, ông lái đò cho chạy qua
bờ bên kia. Ngang qua sông chỉ khoảng 5m, nhưng có những lần đò bị mắc cạn thì
phải mất nhiều thời gian.
Rời bến, ba người cùng đi qua khu chợ. Theo
lời mợ Nhung thì mua ít quà biếu người thân, rồi tiện thể mua vải may quần áo
cho Như Huyền luôn. Đi qua khu hàng quần áo là tới hàng trái cây. Như Huyền thấy
chợ tỉnh nhộn nhịp và nhiều hàng hóa làm cô phải đắn đo trước những món hàng
mình cần mua. Những sập hoa quả đủ loại đang được người bán hàng mời chào. Xa
xa là những gánh hàng nhỏ, có người hai thúng bưởi, hai mẹt chuối…
Ông Trung và mợ Nhung lựa hàng, còn Như Huyền
thì chỉ đi theo xách phụ, vì cô không biết mặc cả giá hàng. Tới một quãng nữa,
Như Huyền chợt nhìn thấy người quen nhưng không dám gọi. Bỏ hoa quả lại, cô đi
một mình tới chỗ bà ta.
Ôi, lạy Chúa, cô ấp úng kêu nhè nhẹ, rồi nhanh
chân tiến lại chỗ em bé và nói:
-
“Thiên
Nga, con!”
Ngồi trên chiếc ghế đẩu nhỏ, bé Thiên Nga mù
đang ăn chiếc bánh rán, mắt nhìn ra phía đường. Vừa nghe gọi tên mình, nó dừng
lại thôi không ăn nữa, đôi mắt chớp chớp như thể vừa nghe thấy giọng nói của
Như Huyền.
Sát bên là hàng đồ nhựa, bà bán hàng đon đả
bước ra mời khách. Nhưng vừa thấy Như Huyền, bà sáng mắt lên gọi: “Ồ dì Huyền,
đúng là dì rồi!. Trông dì gầy hẳn đi khó nhận ra”.
Như Huyền nhận ra bà ấy là người đã dúi số
tiền vào giỏ sách thánh ca. Cô ấp úng chào lại bà rồi nhìn sang đứa bé hỏi
tiếp: “Cháu gái này bà đang nuôi ạ?”
-
“Ồ,
không đâu”. Rồi bà bước tới chỗ con bé vỗ vỗ vào lưng nó nói tiếp: “Cháu kháu
lắm Dì ạ, dễ thương, và tinh tai lắm. Nhưng lại bị mù, thật tội nghiệp. Bố nó
mới gửi bác mấy ngày hôm nay thôi”.
-
“Bố
con bé! Ý bác là….” Như Huyền ngập ngừng hỏi lại. Cô biết Phi Hòa đã được cậu
mình giúp đỡ rồi mà, vậy lại xảy ra chuyện gì nữa chăng? Bé Thiên Nga đã không
có mẹ lại vắng sự hiện diện của bố luôn.
Vừa lúc đó mợ Nhung và ông Trung cũng vừa tới.
Mợ Nhung cằn nhằn nói vài câu gì đó làm Như Huyền nhận ra sự vắng mặt đột xuất
của mình khiến mợ đang ấm ức phát bực.
Bé Thiên Nga ngồi im lặng đưa mắt nhìn từng
người như thể nhìn thấy hết mọi sự. Nhưng đôi đồng tử của cháu bé hơi mờ mờ làm
ông Trung chú ý. Cái mũi cao, nhỏ nhắn, ẩn hiện bên đôi má phúng phính ửng
hồng, lộ rõ những đường ngấn hình vòng cung như thể mặt trăng trên bầu trời. Nhất
là khuôn mặt của em giống hệt con trai ông hồi còn bé. Tự nhiên ông buột miệng
kêu lên: “Phi Hòa!”
-
“Gì
vậy bố? Như Huyền và mọi người đều nhìn ông Trung ngạc nhiên”.
-
“Không,
không có gì, chỉ là bố ảo giác mà thôi”.
Thấy mình rơm rớm nước mắt, ông quay ra phía
ngoài một mình. Từ ngôi nhà phía trong, ông đi dọc qua lối nhỏ chừng 3m thông
ra quán trái cây. Dưới giàn mướp, ông kìm sự xúc động, nhưng hình ảnh về đứa
con trai ông, nó bỏ đi biền biệt kể từ khi vợ con nó mất. Một gia đình, ôi một
gia đình. Người vợ cần chồng, những đứa con cần bố, thế mà chính ông đã hắt hủi
bà ấy, để những đứa con cũng phải sống trong cảnh thiếu vắng tình thương của cả
bố lẫn mẹ. Như Huyền rất hồn nhiên và thấy hạnh phúc, nó chẳng nghĩ gì đến một
người bố thân tàn ma dại với quá khứ đen tối. Còn người anh trai, giờ cũng
không biết mặt mũi ngợm nghĩnh thế nào. Nghĩ đến đây mắt ông thấy cay xè, ông
dụi dụi con mắt, quay vào trong nhà. Ông ngẩng mặt lên, thì con gái ông đã đứng
đó từ khi nào, Như Huyền chạy lại, vùi đầu vào vai bố và hỏi:
-
“Bố
có chuyện gì à? Kể cho con nghe đi bố”.
-
Ông
Trung vỗ vỗ vào đầu Như Huyền và nói: “Bố không dấu con điều gì đâu, có chuyện
này thì” … thấy vẻ tha thiết của con gái, ông Trung nói tiếp: “Thật ra, con còn
người anh trai nữa. Nhưng bây giờ nó làm sao thì bố không biết, bố không muốn
nói điều này ra vì sợ con buồn mà thôi”.
-
“Vậy
hả bố. Khi mẹ còn sống, mẹ cũng có nói với con điều này. Con muốn được gặp mặt
anh trai bố ạ. Mà anh trai của con hình dáng như thế nào hả bố, chắc giống bố
lắm nhỉ”. Thấy vẻ mặt của ông có vẻ trầm xuống, cô pha chút hài hước để xua đi
màu đen tối ảm đạm đang xâm chiếm tâm hồn bố của cô.
Vừa nghe đến đây, ông Trung lại trào lên niềm
xúc động: “Nó cũng thay đổi nhiều rồi. Đã mấy năm trôi qua, bố cũng không còn
nhớ nữa, kể từ khi vợ và con của anh con chết. Bố chỉ nhớ lúc ấy nó rất ngang
ngược, không nghe lời ai cả, bố đã đuổi nó ra khỏi nhà. Nó đã bỏ đi thật, bố đi
đây đó tìm nó như năm xưa mẹ con cũng lăn lội đi tìm bố”.
-
“Thế
anh ấy có về thăm bố lần nào không?”
-
“Ôi…
sao bố đau đầu quá con!”thế rồi ông ngã nhoài ra đất, gương mặt biến sắc, kèm
theo cơn co giật.
Như Huyền thấy bố có sự khác thường liền chạy
gọi mợ Nhung rất thanh: “Mợ ơi, bố cháu…”
Vừa lúc đó, từ phía ngoài gian hàng hoa quả,
Phi Hòa đi tới. Thấy ông Trung nằm đó, rồi Như Huyền và mợ Nhung, anh ngạc
nhiên hỏi: “Chào Dì Huyền, sao bố của con lại ở đây?”
Sự xuất hiện bất ngờ của Phi Hòa làm Như Huyền
ngạc nhiên, nhất là câu hỏi vừa rồi làm cô thắc mắc hỏi lại ngay: “anh nói gì,
bố của ai? Đây là bố của dì mà”.
Phi Hòa không hiểu hỏi lại: “Dì nói gì cơ?”
Thấy vậy, mợ Nhung cau có nói lại: “gớm, bố ai
mà chẳng được, mau đưa ông ấy vào nhà, sao vừa sốt vừa co giật thế này”. Nói
rồi, mợ Nhung nhắc nhở chú ý đến tay chân để khỏi trật khớp, và nhất là không
để hai hàm răng cắn vào lưỡi.
Sau hơn 3 phút, ông Trung hết co giật, cơn sốt
cũng từ từ giảm. Bà Hành chủ nhà dẫn bé Thiên Nga lại chỗ Phi Hòa, bà nhìn ông
Trung rồi quay sang nói nhỏ với Như Huyền, vẻ mặt trầm trọng: “con thấy bố của
Dì có dấu hiệu bệnh tim đó, nhìn mặt là con đoán ra, dì để ý hơn đó”.
Như Huyền gật đầu cám ơn. Rồi lại quay sang
nhìn bố vẻ lo lắng. Bên cạnh ông Trung, Như Huyền chiếm chỗ gần đầu giường, thứ
đến là mợ Nhung, còn Phi Hòa thì bị đẩy ra phía sau cùng con gái của anh.
Ông Trung hồi tỉnh và ngồi dậy được. Trong ánh
sáng lòe nhòe của đôi đồng tử chưa kịp hoạt động, ông thoáng thấy Phi Hòa, Như
Huyền và mọi người đang ở đây. Đột nhiên mắt ông bừng tỉnh, tâm trí sáng hẳn
ra, đăm đăm nhìn vào hai đứa con hồi lâu làm mọi người ngạc nhiên. Chị Nhung
định tới gần hỏi ông Trung thì ông nghẹn ngào lên tiếng: “Lạy Chúa, sao hai con
đều ở đây thế này?”
Như Huyền ngây người không hiểu nhìn mợ Nhung,
mợ Nhung lắc đầu và quay về phía Phi Hòa, anh cũng đang ngơ ngác nhìn mọi
người. Một sự im lặng bao trùm khiến ai cũng phân vân, chờ đợi một biến cố mới
sắp xảy ra.
-
“Như
Huyền!” Ông Trung gọi nhẹ rồi với tay về phía cô ra hiệu tiến lại gần hơn và
nói: “Huyền con! người đang ngồi sau lưng con đó, con quay lại nhìn đi, đó
chính là anh trai của con”. “Phi Hòa!” ông chỉ tay về phía Như Huyền nói tiếp: “còn
đây là em gái của con. Chúng con là anh em ruột thịt của nhau trong một gia
đình”.
-
“Bố
ơi! Như Huyền không kìm được nước mắt, cô ôm chầm vào bố hỏi lại: Thật không
bố, đây là anh trai con ư, sao lại…”
-
“Sao
vậy con?” Ông Trung ôn tồn hỏi lại.
Mợ Nhung như sực nhớ ra điều gì liền gọi Như
Huyền: “Như Huyền à, mợ nhớ ra rồi, phải chi cháu đưa Phi Hòa về nhà gặp mẹ lúc
bà ấy đang ốm thì hay biết mấy. Lúc đó mẹ cháu tha thiết muốn gặp mặt con trai
lần cuối mà không được”.
-
“Chúng
con đã… đã biết nhau rồi à”. Ông Trung lên tiếng hỏi.
-
“Không
những biết, mà Phi Hòa còn là ân nhân cứu mạng của Như Huyền ba năm về trước đó”.
Mợ Nhung trả lời lại.
-
“Ôi
tạ ơn Chúa”. Ông Trung ngước mắt lên trời một chút rồi nói tiếp: “Chúa thật
quan phòng phải không? Trong lúc gia đình mình đang gặp những khủng hoảng, thì
chính Chúa đã gửi những thiên thần là chính người nhà đến giúp đỡ khiến chúng
ta không ai ngờ. Ôi, giờ đây, bố được gặp cả hai chúng con”. Một chút lệ hoen
trên khóe mắt, ông Trung gọi Phi Hòa: “Phi Hòa, con về với bố nhé, sao hơn một
năm nay, con không đoái hoài gì đến bố vậy?”
Thấy Phi Hòa và Như Huyền đều im lặng nhìn
nhau. Mợ Nhung định trả lời, nhưng Như Huyền đã kịp day gót chân vào mợ ra hiệu
im lặng, vì cô không muốn cho bố biết Phi Hòa bị tù suốt một năm qua.
Trên con đò từ tỉnh trở về, cả gia đình ông
Trung đều rất hạnh phúc, họ kể cho nhau những câu chuyện vui. Bé Thiên Nga được
ông nội bế suốt thời gian ngồi trên đò. Mặt nước sông hôm nay như trong hơn, có
thể nhìn thấy rất sâu xuống đáy, nhưng khi con đò đi qua, lại để lại một màu
hồng đục ngàu do cát vấy lên.
Về tới bờ đê, chị Lan và cu Hải đã đứng đón ở
đó. Ông Trung bế thằng bé lên, tới chỗ Phi Hòa nói: “Đây là em trai của con, mẹ
nó đang bước tới đó”. Vừa nhìn thấy chị Lan, Phi Hòa ồ lên sự ngạc nhiên: “Mọi
người làm con bất ngờ quá!”Anh đón lấy thằng bé và ôm nó vào lòng.
-
“Ngày
mai gia đình mình sẽ xin thánh lễ tạ ơn, vì Chúa thương gia đình mình quá, hôm
nay mọi người đều đông đủ, gia đình chúng ta thật hạnh phúc”. Nói rồi ông Trung
gọi tên từng người trong gia đình một cách thân thiện.
Phi Hòa đến ôm từng người và nói: “Con không
ngờ có ngày ý nghĩa như hôm nay, con thật hãnh diện khi có một gia đình đầy
thân thiện như vậy ngay cả khi chúng con chưa biết nhau là anh em. Trước mặt
mọi người, con xin lỗi bố, từ nay con không bỏ nhà ra đi nữa, con sẽ yêu thương
bố. Con thật sung sướng có người em gái như Như Huyền, thật dũng cảm và thánh
thiện biết bao. Con đón nhận mẹ Lan cùng em Hải và chăm sóc như chính ruột thịt
của mình. Còn cậu mợ sẽ là cố vấn cho cháu, giúp cháu trở nên người tốt hơn”.
Đêm hôm ấy, đèn sáng đến khuya, ai nấy đều
không muốn đi ngủ. Khoảnh khắc tình thân gia đình họ vừa nhận được thật lớn lao
biết bao. Mở cuốn nhật ký, Như Huyền ghi lại vài chữ:
Gia đình, nơi ươm mầm sự sống
Gia đình, con cái học yêu thương
Gia đình, mọi người đều liên lụy
Gia đình, nhìn thấy Chúa ở bên
Chương 26. Đến thăm cộng đoàn
Cậu Phúc đi đi lại lại ngoài sân, một lúc sau
mới vào gặp ông Trung, rồi đưa bức thư và nói: “Hôm qua, em nhận được lá thư
này từ cộng đoàn Tôma Aquinô, các dì muốn Như Huyền lên đó chơi hai ngày rồi
vào nhà mẹ miền nam, anh nghĩ sao?”
-
“Anh
sẽ cho Như Huyền đi”. Ông Trung trả lời lại.
-
Anh
Phúc lắc đầu: “Chẳng phải họ đã đuổi Như Huyền nhà mình về rồi sao, lên đó nữa làm
chi?”
-
“Ồ.
Như Huyền đã không để ý đến chuyện này thì em chấp nhất làm chi, anh biết nó
quảng đại lắm. Hơn nữa, biến cố này không phải là thánh giá, mà ơn phúc Chúa
xếp đặt để nó trở về đoàn tụ gia đình”.
Anh Phúc đặt lá thư lên bàn, khoanh tay, không
đồng ý cho Như Huyền đi. Nhìn ra cửa, gió sông Hồng đang thổi vào, anh chợt
nghĩ đến Phi Hòa. Bước tới anh Trung, anh Phúc chỉ tay: “Anh nhìn kìa, từ sáng
đến giờ ba anh em nó tíu tít với nhau ở ngoài bờ sông. Vừa mới nhận em, còn lâu
Phi Hòa mới để em gái mình đi tu lại”. Anh Phúc mỉm cười với quyết định của
mình.
-
“Cũng
có thể”. Anh Trung gật gật đầu, rồi tới vỗ vai anh Phúc, cùng nhìn ra phía sông
thông qua song cửa: “chúng nó chơi hết mình, thương nhau hết mình và cũng sẽ
không nề hà gì để thắt chặt lại mối dây tình yêu với Thiên Chúa qua đời sống
hiến dâng. Em cứ thử hỏi Phi Hòa mà xem, thằng bé không từ chối đâu”.
-
“Anh
từng đi tu nên nghĩ vậy thôi, chứ ngoài đời chúng em thẳng thắn lắm”. Anh Phúc
phân bua tiếp: “Như Huyền đã bị đuổi một lần rồi, chắc sẽ còn lần nữa, thế thì
nhà mình để mặt ở đâu, thà ở nhà lấy chồng cho yên thân”.
-
Ồ, ông
Trung bật cười: “Nay em suy nghĩ kỳ cục quá! Chính những chông chênh, bấp bênh,
sóng gió mới là bảo đảm cho đời sống dâng hiến. Những soáy sông Hồng ngoài kia
chẳng là gì cả, phải là bấp bênh của sóng biển cơ. Vậy đời tu mới ý nghĩa chứ”.
-
“Bố
con anh cứ nói về đời tu đi”. Anh Phúc hậm hực bỏ ra ngoài.
Phi Hòa và Như Huyền cùng đến ngôi mộ của mẹ.
Anh nắm tay dắt cô chạy tới theo sự hướng dẫn của Như Huyền. Đứng trước ngôi mộ
người quá cố, Phi Hòa trào lên niềm xúc động, anh lặng thầm quỳ xuống đất thủ
thỉ: “ Mẹ ơi, con trai của mẹ đã về đây, mẹ rất yêu thương con và mong gặp con.
Cảnh đời thật trớ trêu làm con vô tâm quá, bao lần con đi qua cuộc đời mẹ, cuộc
đời em gái đang đứng cạnh con đây mà con không nhận ra”.
Như Huyền cũng quỳ xuống bên mẹ, cạnh anh
trai. Hai anh em cùng lấy tràng chuỗi mân côi cầu nguyện cho mẹ trong niềm sốt
sắng, lòng yêu mến Chúa và mẹ Maria.
Lần chuỗi xong, Phi Hòa ngồi tựa lưng vào cạnh
bức tường mộ của mẹ, vừa hái một ít hoa Lưu Ly vừa quay sang hỏi Như Huyền: “
Anh cũng không hiểu sao bố mẹ lại thích hoa Lưu Ly em nhỉ?”
-
Như
Huyền cười: “ em cũng chịu, anh về hỏi bố í”
-
Um,
trồng đầy ngôi mộ, lại trồng một vườn nhỏ ở nhà nữa, chắc có một ý nghĩa gì đó.
Phi Hòa ra vẻ ưu tư.
-
Như
Huyền tủm tỉm cười rồi trả lời: “vườn hoa ở nhà là do kế hoạch nhỏ của em đó.
Từ ngày mẹ Lan về đây, em thấy tinh thần bố ổn định hơn”.
-
“
Đúng là con người sống không thể thiếu mối tương quan em nhỉ. Ai cũng cần có
những trợ tá để sống. À, còn em, em vẫn
đi tu chứ”.
-
“Vâng,
làm sao em có thể bỏ Chúa được”.
-
“Anh
ghen tị với em đó, anh ao ước cũng được đi tu như em để chỉ dành trọn trái tim
của mình cho Chúa mà thôi”.
-
“Vâng,
em cám ơn sự ghen tị của anh, em lấy đó làm niềm hãnh diện vì ơn gọi cao quý
của mình được Chúa ưu ái ban tặng”.
-
“Thôi,
anh em mình về đi, bố không thấy mặt hai đứa lại lo đi kiếm đó”.
Khoảng 8 giờ sáng hôm sau, Như Huyền cùng Phi
Hòa lên Lạng Sơn, chị Lan cũng lên thăm hai đứa con khuyết tật đang được các dì
nuôi ở đây.
Mọi người cùng đến bờ đê, cách đó chừng 5m,
ông Trung kéo riêng Như Huyền ra và dặn dò tiếp: “Con lên đó nhớ cho gia đình
mình gửi lời hỏi thăm nhé, còn đây là quà gia đình mình biếu các dì. Con hãy
đem bộ mặt vui tươi như Mẹ Maria xưa kia đem Chúa đến cho người khác. Tới nơi,
con phải biết ơn vì các dì đã dạy con rất nhiều bài học quý giá, với các cháu
khuyết tật con cũng phải trân trọng và yêu thương chúng như thế. Con đi mạnh
khỏe nhé, ba ngày sau bố sẽ ra đây đón con và đưa con vào nhà Dòng”.
Ông Trung cũng nhắn với Phi Hòa và chị Lan
phải thật chân thành và tôn trọng quý dì trên đó.
Anh Phúc thì cứ lầm lầm không nói gì, chẳng
khi nào anh đồng ý cho Như Huyền đi tu lại cả. Nhìn anh rể, anh thấy sự giằng
co đang ẩn hiện trên đôi mắt, cả cử chỉ đôi khi lúng túng cũng tỏ ra một sự hy
sinh rõ ràng như để chiều lòng con gái. Còn khuôn mặt nhợt nhạt kia, không thể
che giấu một cảnh báo về sự càn quét từ từ sức khỏe thể lý lẫn tâm lý của anh.
Đang
đăm chiêu nhìn anh Trung, Như Huyền liền đến trước mặt cậu Phúc, cô đứng nhìn
mãi, buộc cậu phải nhìn lên và đưa tay ra hiệu chúc lành để cô đi bình an.
Men theo dọc bờ đê sông Hồng là con lộ chạy
thẳng lên mạn vùng sơn cước. Chẳng mấy chốc, chiếc xe đã vào trạm bến xe phía
Bắc. Sáu giờ đồng hồ trôi qua thật nhanh do mọi người cùng vui vẻ nói chuyện và
kể cho nhau những kỷ niệm về các cháu nơi đây.
Đúng như dự đoán, các em khuyết tật đều ra
cổng đón Như Huyền như ngày đầu cô tới cộng đoàn. Cô chạy tới ôm dì Nương, sau
mấy tháng không gặp, dì vẫn khỏe. Các cháu bu quanh dì Huyền, chúng nhận ra Phi
Hòa nên òa lên mừng rỡ. Hai đứa con chị Lan gặp lại mẹ thật vui mừng biết bao,
một đứa nhảy lên, một đứa nằm xe lăn cạnh đó cũng la hét lên vì vui sướng. Chị
ôm chúng vào lòng thật thân tình như bao năm xa cách.
Ngồi giữa đám trẻ con đang vui mừng vừa ca hát
vừa hò hét, đứa thì được ôm, được nựng lại có quà trên tay nữa. Như Huyền thật
hạnh phúc, cô thấy niềm vui của mình được hòa vào niềm vui của chúng và nhân
lên gấp bội.
Từ xa, Như Huyền nghe như tiếng ai đang gọi
mình. Ngước mắt lên cô thấy dì Thu, đang chống nạng ba càng, miệng tươi cười cố
gắng bước tới và luôn gọi: “Như Huyền, Như Huyền ơi!”
Hình ảnh đó làm cô khựng lại không nói được
lời nào, cô cảm phục dì quá sức, dì đang cố gắng để đem niềm vui tiến về phía
cô. Chỉ một cơn sốt đã đưa dì tới căn bệnh này, nhưng cơn sốt oái ăm ấy không
chiếm lĩnh được tâm hồn dì, nhìn dì thánh thiện quá, như một thiên thần vậy.
Tức thì cô chạy tới và ôm lấy dì, bọn trẻ thấy vậy cũng dắt díu nhau tới. Trong
đám trẻ này, Như Huyền thấy có hai bé mới, đều bị hội chứng đao. Bảo Trân không
có ở đây, chắc đang ở nhà mẹ, thay vào đó là hai dì khấn khác cũng rất yêu
thương đám trẻ này.
Khi đám trẻ được đưa vào nhà, chị Lan nhanh
tay xuống bếp phụ dọn cơm. Phi Hòa chào các dì và thay mặt gia đình gửi lời hỏi
thăm quý dì nơi đây.
Vừa nghe xong, dì Thu lọng khọng đứng lên tiến
về phía Phi Hòa và nói: “Dì cám ơn gia đình em. Dì cũng xin lỗi em và Huyền, dì
đã hiểu lầm hai em…”
Phi Hòa vội đứng lên đỡ dì Thu ngồi xuống: “Thưa
dì, không phải lỗi của dì đâu, chính nhờ dì chúng con mới nên người tốt”.
-
“Ừ…
các em ở lại đây chơi vài ngày rồi về, thấy các em khỏe mạnh, dì cũng vui và
khỏe khoắn hơn”.
Sang ngày thứ ba, lúc ấy khoảng hơn bốn giờ
sáng, trời còn tối mịt vì mưa suốt đêm. Như Huyền ngủ cùng các cháu ngày cuối
để lên đường. Các cháu bây giờ ngủ rất ngoan, hầu như ít khóc hơn ngày xưa,
chúng không phiền nhiễu các dì nhiều vào ban đêm nữa. Nghe dì Nương nói tối nào
cũng đọc kinh cầu nguyện với các thánh Tử đạo Việt Nam, nên các thánh phù hộ
cho chúng. Bóng đèn tròn ngoài sân không đủ chiếu sáng để nhìn rõ từng mặt
cháu, nhưng Như Huyền vẫn nhìn thấy từng hình dạng thật dễ thương. Chỉ ba mươi
phút nữa, cô sẽ lên xe tạm biệt bọn chúng. Mở trang nhật ký, cô viết:
Các em nằm đó tựa thiên thần
Chẳng biết gian trần có phù vân
Chúa thương gắn kết mọi phương lại
Thành một gia đình đầy nghĩa thiêng
Chương 27. Ra đi trong âm thầm
Vừa đứng lên gấp quyển vở lại, thì thình lình
tiếng ùng ục, tiếng la hét rất thanh ở đâu vang tới. Thật nhanh, Như Huyền chạy
ra cửa, cũng vừa lúc dì Nương chạy tới, giọng hoảng hốt:
“Huyền ơi, đập thủy điện Hà Cát bị vỡ, mau đưa
các em lên nhà thờ lánh nạn!”
Cơn mưa rào từ phía các tỉnh mạn cuối đông bắc
đã dồn về, lượng nước hồ thủy điện bị tràn ngoài tầm kiểm soát, loa phát thanh
bị hư nên không mấy người biết mà chạy trước.
Mực nước đã ngập hết mặt đường khoảng 3m và sẽ
còn lên cao nữa, nhà Mồ côi không mấy chốc sẽ bị nhận chìm trong nước. Chị Lan
gọi hết các cháu dậy, dì Nương thì ra chặt mấy cây chuối để đóng bè. Nước càng
lên cao, dì Thu ngồi đó lo lắng ổn định đám trẻ đi lại được. Như Huyền phụ dì
Nương lấy dây lạt cột chặt các vấu nẹp nối kết các cây chuối lại. Vừa làm xong,
dì Nương thẫn thờ :“bè nhỏ vậy không biết có đi nổi đến nhà thờ không, với mực
nước ngày càng mạnh và cao như vậy”.
Như Huyền cũng không khỏi lo lắng. Lạy Chúa
giờ con phải làm sao đây? Cơn mưa rào lại bắt đầu đổ xuống, nặng hạt hơn đêm
qua, trận mưa cứ ào ào đổ xuống, cộng thêm tiếng nước chảy ùng ục làm thành mớ
âm thanh náo động.
Từ cộng đoàn nhìn qua phía đối diện, nước đã
dâng cao gần mép sát chân rừng, dòng suối ngày một phình ra bởi độ rộng của
dòng nước. Đồi trọc bên cạnh bị sạt lở thậm tệ, kéo theo lớp bùn nhão nhoẹt dải
khắp vùng quanh đó, rồi hòa vào dòng nước thành mảng đục ngàu. Năm phút sau,
nước đã chạy vào đến cổng cộng đoàn. Vừa thấy nước, chị Lan không kìm được sự
sợ hãi cũng la lên: “Dì ơi, nước vào đến nhà mình rồi kìa, chúng ta sẽ chết mất
thôi!”. Được đà, đám trẻ cũng la lên om sòm.
Như Huyền hết chạy kiếm dì Nương lại ra cổng
đón Phi Hòa. Dì Nương gọi điện thoại xin cấp cứu mà không được. Phi Hòa đi kiếm
thuyền giờ này cũng chưa về, một mình đi ra ngoài lúc trời còn chưa sáng, mực
nước lại cứ dâng cao mãi không biết anh ấy đang ở đâu.
Vừa lo lắng, vừa phải ôm từng em lên gác lửng
để tránh nước. Đứng nhìn từ đây, Như Huyền thấy có một con thuyền nhỏ của hàng
xóm đang chạy qua, mọi người quanh làng cũng đang chạy lụt, rồi theo sau đó có
con thuyền lớn hơn chạy nhanh hơn, vụt qua con thuyền nhỏ kia.
Nước đã dâng đến sân rồi đến nhà, dì Nương
quyết định thả bè chuối mới làm để thoạt nạn. Chiếc bè nhỏ chỉ chứa được bốn
người một lần, giờ cho cháu nào đi trước.
-
“Các
bé bại liệt đi trước!” Dì Thu lên tiếng.
-
“Nhưng
chúng nằm đó, lỡ lăn xuống nước thì sao?” Chị Lan không đồng ý nói: “cho các em
đi được tránh lũ trước”.
Như Huyền thở dốc vì mệt, cô vừa đi mượn được
bè tre Bương dài hơn hai mét, chiều rộng gồm bảy cây tre gom lại. Ngồi trên bè
tre, cô hớn hở gọi dì Nương cho các cháu xuống.
Vừa lúc đó, Phi Hòa từ đâu trở về, anh phóng nhanh đến nỗi những làn
nước chĩa ra thành một mảng dài rồi tung tóe ra cả một khoảng rộng.
-
“Cho
các cháu lên đây mau lên!” Phi Hòa ra lệnh.
-
“Làm
sao cậu lái được hết”. Dì Nương e dè ngập ngừng.
-
“Cho
mấy em khỏe lên bè tre đi, con lái được mà, con lại biết bơi nữa”. Như Huyền
nói tiếp: “Con và mẹ Lan cùng bốn em khuyết tật, tổng cộng là sáu người. Còn
bên đò của anh Phi Hòa thì dì Nương, dì Thu, các dì và các bé còn lại: đôi,
bốn, sáu, tám… tổng cộng là mười lăm người nhé. Nhanh lên kẻo không kịp đâu dì”.
Đến nhà thờ, mọi người cũng đang trú lụt ở đây. Cơ quan phòng chống bão lụt đã nhận được tin, họ phân tán các đội cứu người đến các ngôi nhà hay ngọn núi cao để đưa người đi đến chỗ an toàn.
Chiếc thuyền của Phi Hòa tới trước vì có gắn
mô tơ nhỏ. Bè tre Bương của Như Huyền cũng đang nhắm phía nhà thờ thẳng tới.
Như Huyền ngồi lái phía trước, mẹ Lan ngồi phía sau, bốn đứa trẻ được chia đều
ở hai đầu ngồi cùng với hai người lớn cho cân. Vừa ngồi, mẹ Lan vừa nạt vừa dọa
và thấy nước nhiều quá nên chúng ngồi yên không dám động đậy.
Trời vẫn đổ mưa, cơn mưa nhẹ hơn lúc nãy nhưng
cũng đủ thấm ướt hết áo, lớp áo mưa không đủ giữ nước vì mỗi lần Như Huyền
nhoài người ra để lái làm cho lớp ni lông lại bị rách thêm.
Giữa mặt nước mênh mông, lổm chổm những cây
thân gỗ còn nhìn thấy hình dáng, các loại cây nhỏ đều bị nhấn chìm dưới dòng
nước. Gần tới nhà thờ, Như Huyền vui mừng, cô cố gắng lái chiếc bè đến nơi, vì
dòng nước chảy khá mạnh, nên cô phải lái vòng qua lối khác để tới nhà thờ. Nhìn
quanh, Như Huyền thấy mẹ Lan ra hiệu dừng lại. Một ngôi nhà ven rừng cách đây
không xa, có tiếng người gọi: “Cứu tôi với, có ai ở đằng kia, cứu với!”
-
“Có
người gọi Huyền ơi!” Chị Lan khẳng định.
-
“Mình
lái về phía đó đi mẹ”. Như Huyền trả lời.
-
“Nhưng
bè có bị chìm không con?”
-
“Không
sao đâu mẹ, bè của mình còn chứa được khoảng bốn người nữa mà”.
Một bà mẹ cùng hai đứa con, một đứa còn đang
bế trên tay, một đứa khoảng năm tuổi đang ngồi trên nóc nhà. Như Huyền lái đầu
bè về phía họ và ra lệnh: “Chị bế hai đứa trẻ xuống đây! Thế bố các cháu đâu
rồi?”
-
“Em
sợ lắm, chị lên cứu em với, anh ấy đi kiếm thuyền nhưng nửa giờ rồi không thấy
đâu hết, em sợ lắm chị ơi”.
-
“Để
chị lên giúp”. Như Huyền nhảy qua phía nóc mái nhà.
-
“Cẩn
thận Huyền ơi, mái ngói bị thủng đó con”. Chị Lan nói với theo.
-
“Vâng
ạ”. Từ bên này, Như Huyền đáp lại thật to cho chị Lan yên tâm.
Như Huyền cẩn thận bế đứa trẻ cho người mẹ kia
bước một mình xuống bè, sau đó, Như Huyền bế đứa trẻ xuống cho cô ấy. Đứa con
gái thấy mình còn ở lại một mình, sợ hãi, nó gào lên khóc.
Như Huyền vội trấn tĩnh: “Con ngồi yên đó, chờ
cô qua!”
Con bé không nghe, nó đứng lên, chạy với theo
mẹ. Từ độ dốc của nóc nhà, con bé ngã lăn xuống mặt nước. Như Huyền trao đứa
trẻ cho bà mẹ rồi nhảy xuống cứu bé gái. Mẹ đứa trẻ mặt trắng bệch hoảng hốt
gọi: “con gái, con gái em đâu rồi chị”, rồi òa lên khóc.
Đám trẻ khuyết tật thấy người lớn khóc, nó
cũng sợ hãi ri rỉ chạy về phía chị Lan, chiếc bè bị lệch độ thăng bằng, chòng
chành chảy về hướng con suối. Một mình chị Lan ra sức đẩy mái chèo ra khỏi dòng
suối vừa trấn tĩnh: “Dì Huyền biết bơi mà, em đừng gào nữa được không!”
Miệng nói vậy nhưng chị Lan cũng cảm thấy lo
lắng. Lúc này trời đã sáng, cơn mưa đã tạnh, những hạt mồ hôi bắt đầu rịn khắp
người. Nhìn chung quanh, chị Lan không thấy Như Huyền đâu cả, tâm trí bắt đầu
bấn loạn. Chị cố dằn lòng và nói với chính mình: “Lan ơi, cố lên, cố lên”.
Vừa lúc đó Như Huyền ngoi lên khỏi mặt nước,
con bé uống đầy bụng đang trợn trừng mắt. Chị Lan chạy tới cầm hai chân dốc
ngược con bé xuống để nước ra ngoài. Khi con bé bắt đầu tỉnh lại và nhận ra sự
hiện diện của mẹ bên cạnh, nó mới thôi khóc.
Cứu người xong, chị Lan tiếp tục lái chiếc bè
về phía nhà thờ, Như Huyền đã thấm mệt nên cô lái phía sau.
Bất chợt có hai cây gỗ bạch đàn dài theo dòng
nước chảy đang lao tới. Chiếc bè của Như Huyền bị trôi về phía con suối, và kẹt
vào những cây khác cũng đang trôi xuống. Những cây gỗ ở bìa rừng bị sạt lở, bật
hết cả rễ và cuốn theo dòng nước, cô phải nhảy xuống, một tay bám chắc vào bè,
một tay cố gắng đẩy những cây bạch đàn ra.
Thấy chị Lan ra sức lái phía trước, em kia
cũng bỏ con nằm đó cho lũ trẻ rồi phụ chị Lan một tay lái mái chèo ra khỏi chỗ
nguy hiểm này. Theo nhịp đếm của Như Huyền phía sau, hai người phụ nữ phía
trước lái bè thoát khỏi chỗ nguy hiểm.
Chiếc bè cứ thế trôi đi.
Như Huyền cảm thấy hơi đuối sức, cô cố ngoi
đầu lên khỏi mặt nước để gọi mẹ Lan. Dường như mẹ không nghe thấy vì đang hướng
về phía có chiếc thuyền cứu hộ. Ba mẹ con chị kia thì ngồi im bặt vì cơn sợ hãi
vẫn còn. Như Huyền cố ngoi lên lần nữa để cố gắng trèo lên bè, một trong bốn
đứa khuyết tật đang nhìn cô, mỉm cười và dơ bàn tay lên như vẫy chào, nó không
hiểu Như Huyền đang nhìn nó để cầu cứu.
Một tràng tiếng còi báo động có đội cấp cứu
đến. Chị Lan mừng quýnh dơ cao mái chèo cho họ thấy. Vui quá, chị Lan nói to,
mắt vẫn hướng về phía có chiếc thuyền: “Mình sắp được cứu rồi Huyền ơi”.
Rồi chị lại khum hai bàn tay quanh miệng và
gọi họ: “chúng tôi ở đây, chúng tôi ở đây”.
Lúc này, Như Huyền thấy đôi chân như bị chuột
rút, miệng cứng lại vì lạnh, một tay cô vẫn bám chắc vào thành bè, tay kia chìa
ra để đẩy các cây gỗ trôi trên mặt nước theo hướng khác. Dần dần, cô thấy mình
không còn đủ sức, từ từ buông thõng xuống, ngón tay cuối cùng đã rời khỏi thành
bè và chìm dần xuống dưới, giữa con sóng cuộn tròn, dòng soáy đưa cô xuống thật
sâu dưới đáy nước một cách âm thầm.
Thấy có gió thổi, và dường như sợ họ không
nghe thấy mình nên chị Lan vẫn hướng mặt về phía đội cấp cứu và nói với Như
Huyền: “Huyền ơi, con giơ tay vẫy họ đi”.
Không thấy trả lời, chị quay lại nói tiếp: “Huyền….”
“Huyền ơi….Huyền……..
Nhìn về phía ba mẹ con, chị Lan hỏi: “Em ơi, dì Huyền đâu rồi!”
Cả lũ trẻ mắt dáo dác nhìn theo chị Lan, chị
kia vì lo cho hai con nên cũng không để ý đến sự vắng mặt của Như Huyền.
Chị Lan bắt đầu khóc: “Huyền ơi, con ở đâu rồi”.
Chị đến lay từng đứa trẻ và hỏi: “con ơi, con
thấy dì Huyền chìm xuống chỗ nào không?”
Đáp trả lại câu hỏi của chị là sự sợ hãi,
chúng vừa lạnh vừa đói, cả người chúng ướt đẫm đang run cầm cập. Sự can đảm
đang bị sạt lở như ngọn đồi kia, khiến chị thấy mình hoảng loạn, không biết làm
gì nữa.
Đội cấp cứu đã đến, họ đưa mọi người lên chiếc
thuyền lớn. Đám trẻ được mọi người ủ ấm bằng tấm chăn đã chuẩn bị sẵn. Chị Lan
run run không cầm nổi ca nước, chị cầm lên lại bị rơi xuống, ba lần như thế,
người khác phải giúp chị nhấp chút nước cho đỡ khát.
Phi Hòa cũng có mặt trong chiếc thuyền này, vì
anh nghi hoặc sự chẳng lành khi mãi không thấy họ tới nhà thờ. Nhìn mẹ Lan,
nhìn lũ trẻ, nhìn ba mẹ con nhà kia, nhìn dòng nước chảy siết, anh thấy trời
bỗng tối sầm lại. Thu hết can đảm, anh tiến lại hỏi nhỏ mẹ Lan: “ mẹ ơi, em
Huyền con đâu rồi?”.
Chị Lan dật mình, ly nước đang uống dở lại dơi
xuống sàn, lăn vào khe thuyền rồi rơi tõm xuống nước. Chị vừa nói vừa run run:
“ em con, em con đã….. đã chìm xuống dòng nước rồi.”
-
“ở
chỗ nào, chỗ nào hả mẹ”. Phi Hòa lay người mẹ hỏi lại liên hồi.
-
Mẹ
cũng không biết nữa.
Tức thì Phi Hòa lao mình xuống dòng nước để
kiếm em gái. Cùng lúc ấy, hai người thợ lặn trong đội đã nhảy xuống tìm kiếm,
họ báo cáo không thấy dì Huyền đâu cả. Dọc theo dòng suối, họ giăng lưới mong
tìm được dì Huyền.
Lúc này mặt nước suối rộng mênh mông, họ đi
khắp các ngọn đồi chung quanh để cứu và vớt xác người. Một người đàn ông được
vớt lên, nhưng chưa xác định danh tính.
Sau ba ngày, cơn lũ đã đi qua, nước rút gần
hết, để lại một lớp bùn sình lầy khó mà đi lại được. Các dì bắt đầu cùng bà con
ra sức hót bùn để thông đường và dọn dẹp nhà cửa cho nhau. Phi Hòa ở lại giúp
các dì dọn bùn thêm một tuần nữa mới về. Ngày nào anh cũng đi ra suối và ven
rừng, nơi bị ngập nước để tìm kiếm Như Huyền. Anh bần thần trông đến tội
nghiệp, con mắt hõm sâu vì mất ngủ và nỗi lo lắng về người em như đang xâm
chiếm toàn bộ con người anh lúc này. Anh lang thang, ngóng đợi, dò hỏi và cố
gắng tin vào một hy vọng mỏng manh. Tất cả đều vô ích.
Đeo vành khăn tang trên mình, dì Thu chống
nạng đi ra ngoài bờ rào như người mất hồn. Cầm chiếc gậy trên tay, dì cố lục
lọi những chỗ có nhiều cây dây leo. Dì Nương thấy vậy không thể cầm được lòng
liền dẫn dì vào nhà, được một lúc dì Thu lại mò mẫm ra ngoài.
Dì Nương đã mệt lắm nhưng vẫn phải cố gắng trở
ra để đón dì Thu về. Loạng choạng phía sau, dì Thu hỏi với: “ Chị Nương ơi, đã
có tin tức gì về em Huyền chưa?, giá mà….”
-
“Làm
sao hả chị”. Dì Nương giật mình quay lại hỏi.
-
“Giá
mà em không mời Như Huyền lên đây chơi thì không xảy ra sự việc này. Chị Nương
à”…dì Thu ngập ngừng làm dì Nương không hiểu.
Thở nhẹ một cái, dì Thu nói tiếp, “ ngày mai
đến hẹn Như Huyền trở về nhà dòng rồi, gia đình em Huyền sẽ đón nhận sao về
việc này. Vì thật ra, tờ giấy đơn xin khấn của Huyền lần trước, em vẫn còn đang
giữ, chưa gửi về nhà dòng. Đó là lý do em ấy phải lùi lại một năm. Em có lỗi
với Huyền quá chị ạ”.
-
Chắc
chắn ông Trung sẽ phải chịu cơn dao động mạnh, còn Phi Hòa, thì em thấy đang cố
gắng nén cơn đau lại để các dì khỏi nhìn thấy. Như Huyền không được khấn trọn
đời ở dưới thế, nhưng sẽ khấn vĩnh viễn với Chúa Giêsu trên Thiên đàng.
Vừa lúc đó, đám trẻ thấy hai dì đang nói chuyện ở ngoài cổng liền chạy ra hỏi “Dì Huyền đâu rồi hả dì Nương?”. Nhìn chúng nó, dì Nương thấy nao lòng biết bao, trả lời cho chúng thế nào được. Một số em đeo khăn tang trên đầu mà chẳng hiểu gì cả, vô tư ngồi nhìn di ảnh dì Huyền mà cười.
Theo báo cáo của cơ quan xã vẫn còn ba người
chết chưa tìm thấy xác, dì Như Huyền là một trong số đó. Cuộc vận động tìm kiếm vẫn chưa chấm dứt, họ
huy động cả làng, nếu ai thấy họ ở đâu thì phải báo cho cơ quan ngay để gọi
người thân đến nhận xác.
Như lầm lũi trong đêm đen, Phi Hòa lặng lẽ
tiến về phía con suối, dưới gốc cây đa với những chiếc lá vẫn còn lấm đầy bùn,
nơi họ gặp nhau lần đầu tiên. Nhìn bâng quơ mọi cảnh vật nơi đây rồi Phi Hòa
nhìn xuống mặt suối. Anh khóc, khóc thật to như một đứa trẻ. Anh quỳ mạnh xuống
đất, tay nắm những chiếc lá úa, rồi bất động để nước mắt của mình hòa vào dòng
suối thân quen này.
Một lúc lâu, anh đứng lên, nhả nắm lá về chỗ cũ
và nói: “Em gái, em hãy yên nghỉ nơi đây. Anh về với bố trước nhé!”
Chị Lan về nhà từ mấy hôm trước, nhưng vẫn giữ
kín chuyện của Như Huyền với chồng. Thánh lễ cầu hồn đã xong, không ai dám manh
nha cho ông Trung biết, ông vẫn nghĩ con gái mình đang ở trên cộng đoàn.
Đúng tâm trạng của người cha chờ đứa con trở
về, ông dặn đi dặn lại mọi người chuẩn bị những đồ dùng cần thiết để đi dự lễ
khấn trọn đời của Như Huyền. Mặc dù mọi người xem ra không ủng hộ ông cho lắm,
ông vẫn một mình hì hục xem đi xem lại danh sách người thân để không bị quên ai
trong ngày lễ trọng đại này.
Theo lời đã hứa, mỗi ngày ông lại ra bờ đê
sông Hồng- trạm xe khách nhỏ của làng để chờ con gái. Mỗi ngày một người thay
phiên nhau ra cùng với ông, ông kiên trì đứng đợi đến năm giờ chiều, chuyến xe
cuối cùng từ vùng sơn cước đi xuống, rồi mới dẫn ông về nhà. Vừa đi ông vừa lẩm
bẩm, “ sao Như Huyền không về sớm nhỉ, như trò chơi trốn tìm vậy, chắc nó gây
bất ngờ cho bố.
”.
”.
Kể từ ngày Phi Hòa trở về, hôm nay là ngày thứ
mười, ông Trung ra bờ đê hồi sáng sớm. Một mình ông hết đứng lại ngồi và đi dọc
quanh ven con đê. Hôm nay, chị Lan bế con ra đón ông về, chị không biết phải
nói thế nào khi ông cứ nhắc đến con gái. Thế rồi, từ phía sau, chợt cu Hải gọi
to: “Bố, bố, bố ơi…”.
Tràng âm thanh phát ra làm ông Trung giật mình
quay lại. Một sự chờ đợi và mong mỏi nay thành hiện thực bởi thằng bé chậm nói
so với lứa tuổi. Bất chợt, mắt ông mở to nhìn thẳng vào thằng bé, với sự trìu
mến của một người bố, tình yêu thương như hơi thở ấm áp lây lan, thằng bé cười
và gọi bố thêm lần nữa. Ông ôm nó vào lòng rồi nắm tay chị Lan trở về nhà.
Chương kết. Đất mới
Chạy dọc đồng bằng sông Hồng, cánh đồng lúa
được lớp phù sa tưới gội, mơn mởn một lớp xanh rì. Những khóm lúa mới cấy hôm
nào nay đã bén rễ và vươn mình, phơi những tấm áo mới cùng đất trời. Hôm nay là
ngày Đông chí nên vắng người ra đồng hơn, những người nông dân đã yên trí với
phận vụ của mình, trông chờ vào sức mạnh thiên nhiên nuôi dưỡng, chỉ vài người
ra thăm ruộng và nhổ những cây cỏ còn trong ruộng lúa của mình. Xa xa lên vùng
đất màu, với ba vụ trong năm, họ trồng ngô và lạc xen kẽ không để đất trống
ngày nào. Cứ mỗi năm, vào những mùa mưa,
nước sông tràn vào tưới đẫm bãi hoa màu và vùng đất nông nghiệp này, làm
mùa nào cũng được bội thu.
Chiếc xe khách đã chạy đến vùng đất Tràng Định
– Lạng Sơn. Mở cánh cửa ngang, Thiên Nga ngửi thấy mùi hương quen thuộc của hoa
cỏ núi rừng, cô thốt lên: “ Tới nơi rồi phải không bố”
Hải ngồi phía bên kia ngạc nhiên hỏi: “ Đúng
rồi, chỉ còn năm phút nữa là tới cộng đoàn các dì, sao cháu cảm nhận giỏi thế?”
Vắt tay lên vai em, Phi Hòa cười: “ Cả một dấu
tích đó em, Thiên Nga nhớ nơi này lắm, vì không có các dì thì nó đã chết từ lúc
còn nhỏ rồi, nơi này như ngôi nhà đầy kỷ niệm của nó vậy”.
Ngưng một lúc, anh hạ giọng nói tiếp, “không chỉ
Thiên Nga, mà cả gia đình mình cũng mang ơn quý dì lắm”.
Thiên Nga giờ đây là một thiếu nữ xinh đẹp,
với giọng hát và tài nghệ chơi đàn của mình, cô đem bao niềm vui đến cho các em
có những hoàn cảnh khó khăn. Cô được bố đưa đi nhiều nơi để thỏa ước nguyện ca
hát của mình. Ngồi nơi đây, cô không thấy gì, nhưng những làn gió từ trên cao
như những bản nhạc tuyệt sắc đưa cô đến những giây phút tận hưởng những kỳ công
mà Thiên Chúa đã ban cho con người.
Vừa xuống xe, Hải đã thấy mẹ mình đứng chờ ở
đó, bên cạnh là dì Nương đầy phúc hậu, tóc của dì đã trắng nhưng khuôn mặt vẫn
tươi trẻ. Chị Lan, kể từ khi ông Trung mất đã lên lại cộng đoàn để giúp các dì
và chăm sóc con và các cháu ở đây.
Dì Nương tiến nhanh về phía Hải trầm trồ: “
Con trai mẹ Lan lớn nhanh thật, trông cháu chững chạc lắm rồi đó”. Nắm tay
Thiên Nga, dì Nương tiếp: “ Gớm con gái giống hệt như bố vậy. Hai cháu cùng vào
đây chơi với các dì và các cháu”.
Mảnh đất truyền giáo nơi đây thật phát triển,
nhà thờ đã có cha xứ coi sóc, giáo dân đi lễ đông hơn, mỗi năm nhiều người xin
theo đạo để cùng sống yêu thương nhau. Ngôi đền Đức Mẹ được quét tước gọn gàng
và ba phòng học giáo lý được xây dựng để đón nhận các em đến học mỗi ngày. Bên
cạnh nhà thờ là khu nghĩa trang của giáo xứ, các cháu nhà Mồ côi được chôn gọn
một góc. Dì Nương dẫn mọi người ra thắp hương cho họ những ngày cuối năm.
Khu nghĩa trang là một quả đồi, các mộ nằm
thoai thoải theo độ dốc, xung quanh cỏ bông lau mọc xanh, có khi cao hơn ngôi
mộ.
Vừa tới nơi được một chút, dì Nương nhẹ giọng
nói: “ Đúng là đời làm hạt chứ không phải đời làm hoa. Đời làm hoa thì
luôn đi lên với những thang điểm của tài năng, phong phú với cuộc sống đầy sung
túc và may mắn, hãnh diện với những gì mình có. Còn đời làm hạt với
những yếu đuối của tội lỗi, những thoái lui của bổn phận làm con Chúa, nhưng
lại chứa một hồn sống cho đời. Đúng là: “ Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà
không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được
nhiều hạt khác” ( Ga 12,24).
Ngưng một lúc, dì Nương nói tiếp: “Hình ảnh dì
Như Huyền mà anh Phi Hòa vừa kể cho Thiên Nga và Hải nghe đó. Dì đã sống như
một đời làm hạt. Như hạt lúa phủ đầy lớp ram ráp ngứa ngáy xung quanh lớp vỏ
trấu cứng ngắc kia làm người khác khó chịu, nhưng khi nằm trong lòng đất, nó sẽ
nảy mầm vươn lên sự sống mới. Dì Như Huyền làm cho các dì ấn tượng về sự can
đảm, lòng yêu mến Chúa tha thiết và sự phục vụ các hình ảnh của Ngài một cách
tận tình”.
Dì Nương chỉ tay về phía ngôi mộ chưa xây và
nói: “ Mỗi em khuyết tật đang nằm ở đây đều có những kỷ niệm đáng nhớ. Em Hoài
mới đi chưa được một năm, với căn bệnh gồng cứng của mình, em vẫn giữ nguyên
hình dáng ấy, hai tay hướng về phía trước, hai chân co quắp lại cho đến khi
trút hơi thở cuối cùng, đặc biệt miệng em không quên nở nụ cười thật tươi để
nói với mọi người rằng: dù em nằm đây nhưng đời em rất ý nghĩa”.
Đi tới ngôi mộ khác, dì Nương nói tiếp: “còn
đây là ngôi mộ của dì Thu, khi nằm trên giường bệnh, dì đã không ngừng gọi các
em ngồi xung quanh đọc kinh cùng dì, hình ảnh ấy thật thân thương quá làm dì
nhớ mãi”.
“Đối diện mộ dì Thu là một ngôi mộ trống, các
cháu có đoán là của ai không?”
-
“Của
chị cháu”. Hải trả lời thật nhanh.
Nhưng cậu ngập ngừng nhìn lên anh Hòa và hỏi: “Nhưng
chị Huyền chết mà không thấy xác à, em thấy tội cho chị quá anh ơi”.
-
Phi
Hòa xoa đầu Hải và nói:
“Em đã được học về ngôn sứ Môsê rồi chứ, ông
ra đi một mình với cái chết đầy trách nhiệm. Không ai chứng kiến ông chết thế
nào và chết ở đâu. Ông chết theo lệnh của Chúa, để với sự vâng phục, ông trở về
với tận nguồn tình yêu, nơi đó chính Chúa chôn cất ông, chăm sóc ông, nên không
ai biết ngôi mộ ông cho đến ngày hôm nay. Chị Huyền cũng vậy, chị đến nơi chỉ
có chị và Chúa mà thôi”.
“Em thấy chị Huyền của mình giống một ngôn sứ
không?”. Phi Hòa cất giọng cao hỏi lại.
Hai đứa gật gật đầu mỉm cười và nói: “theo
gương chị, em cũng muốn dâng mình cho Chúa để trở nên hạt giống cho đời anh ạ”.
Hải nói vẻ hào hứng và mãn nguyện.
Cầm cuốn sổ trên tay, nơi đó còn vài tờ giấy
trắng chưa viết, Phi Hòa mở ra và viết tiếp:
… Như Môsê, chết đi trong lặng lẽ
Chẳng một ai biết xác phận nơi nao!
Nhưng có Chúa, Ngài quan phòng tất cả
Cành đơm hoa sinh trái một ngày mai.
Xuân Cát
COMMENTS