Dòng nữ Đa Minh Lạng Sơn là Dòng địa phận thuộc Tổng Giáo phận Tp. Hồ Chí Minh, có nguồn gốc từ lạng Sơn Miền Bắc di cư; được thành hình trong một địa phương và với những hoàn cảnh đặc biệt.
Chúa Giêsu đã hứa sẽ ở cùng Hội Thánh mọi ngày cho đến tận thế, nên Chúa Thánh Thần không ngừng soi sáng, để trong lòng Giáo hội luôn luôn có những tâm hồn hiến dâng cho Người, phù hợp với những yêu cầu của những địa phương và hoàn cảnh.
Dòng nữ Đa Minh Lạng Sơn là Dòng địa phận thuộc Tổng Giáo phận Tp. Hồ Chí Minh, có nguồn gốc từ lạng Sơn Miền Bắc di cư; được thành hình trong một địa phương và với những hoàn cảnh đặc biệt.
Nhận biết đấy là một hồng ân của Chúa Giêsu cho Giáo hội Người, nên chúng tôi ghi lại những hồng ân ấy cho những chị em đến sau, để cùng cảm tạ Người.
Lịch sử của Hội dòng Đa Minh Lạng Sơn có thể chia làm 3 phần với 3 thời kỳ:
- Phần I : Thời kỳ Sơ khai – Từ Nhà Phước đến Cải tổ thành Dòng (1918 - 1956)
- Phần II: Thời kỳ Cải tổ và phát triển
- Phần III: Thời kỳ chính thức là Hội dòng Đa Minh Lạng Sơn, thánh hiệu Đức Mẹ Mân Côi, Giáo phận Tp. Hồ Chí Minh đến nay.
PHẦN I : THỜI KỲ SƠ KHAI (1918 - 1956)
TỪ NHÀ PHƯỚC ĐẾN CẢI TỔ THÀNH DÒNG
Theo lịch sữ Giáo hội Việt Nam, Sắc lệnh của Thánh bộ Truyền giáo ban hành ngày 30.12.1913 đã thành lập một giáo phận mới gồm hai tỉnh Lạng Sơn - Cao Bằng và một nửa tỉnh Hà giang, lấy tên là Giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng, và trao cho các cha dòng Đa Minh tỉnh dòng Lyon coi sóc.
Diện tích Giáo phận là 25.000 cây số vuông, với một đường biên thùy Hoa – Việt dài 700 km. Đây là một miền rừng âm u hiểm trở, núi rừng trùng điệp. Dân số lúc ấy có khoảng 300.000 người thuộc dòng dõi Thái, chia làm nhiều chủng: Thổ, Nùng, Mán, Tày… và nói chừng 9, 10 thổ âm khác nhau, với niềm tin dân gian đa thần. Người kinh (Việt) chỉ là thiểu số ở trung châu lên đó làm ăn hoặc đi công cán.
Giáo phận mới đặt dưới quyền coi sóc của Đức Ông Bertrand Cothonay OP. Chiểu.
Khởi đầu kiến thiết giáo phận, Ngài thấy cần có người bản xứ thành tâm thiện chí giúp việc, nhất là ngài đã sống chung và cùng hoạt động truyền giáo với các cha Đa Minh Tây Ban Nha ở Bùi Chu, nên đã kinh nghiệm rằng các “cô mụ” cộng tác vào việc truyền giáo rất đắc lực, nên đã lưu tâm đến việc thiết lập nhà Phước Đa Minh. Nhưng, giáo phận mới, giáo dân chỉ là tân tòng, chưa có ơn gọi tu trì, Ngài đã phải liên lạc với các Nhà phước Đa Minh Bùi Chu, xin một số chị em lên giúp.
I. THIẾT LẬP NHÀ PHƯỚC ĐA MINH (1918 – 1954)
1. Nhà Phước Đa Minh Cửa Nam tỉnh Lạng Sơn
Năm 1918, Đức Ông Bertrand Cothonay OP. Chiểu, qui tụ các chị em lập nên nhà phước đầu tiên tại Cửa Nam tỉnh Lạng Sơn; chị Maria Nguyễn Thị Nha thuộc nhà phước Văn Tiên - Bùi Chu làm bề trên và gồm có các chị em: Maria Nguyễn Thị Cậy, Agatha Nguyễn Thị Nghĩa, Anna Nguyễn Thị Tin, Anna Nguyễn Thị Công, Maria Nguyễn Thị Kính, Maria Nguyễn Thị Mến, Maria Nguyễn Thị Ơn.
Năm 1927, Chị Nha về làm Bề trên nhà phước Cao Bằng, thì Chị Maria Nguyễn Thị Cậy lên thay coi sóc Cộng đoàn Cửa Nam. Chị em làm ruộng, chăn nuôi, trồng màu và nuôi nhà khuyết tật của dòng Đức Bà Truyền Giáo bỏ lại trong trận chiến Nhật – Pháp.
Chị em sống theo tôn chỉ và luật pháp nhà phước Đaminh. Sự hiện diện của chị em nhà phước tiên khởi nơi vùng đất dân ngoại này, cũng giống như các phụ nữ thời Giáo hội sơ khai bên các tông đồ, là theo giúp việc.
2. Nhà phước Đa Minh Mỹ Sơn
Năm 1925, Đức Ông Bertrand lập thêm Nhà Phước Mỹ Sơn. Chị Maria Nguyễn Thị Mầu, Nhà Phước Trung Lao làm Bề trên cùng với các chị Maria Nguyễn Thị Kính, Anna Nguyễn Thị Công, Anna Nguyễn Thị Ơn, Maria Trần Thị Mát, Maria Nguyễn Thị Ngắm, Anna Nguyễn Thị Quy, Anna Nguyễn Thị An, Maria Nguyễn Thị Nghĩa.
Nơi đây các chị cộng tác rất đắc lực giúp chủng viện thánh Têrêsa; trông coi nhà dưỡng lão của các chị dòng Thánh Phaolô đã bỏ chạy chiến tranh vào khoảng năm 1942, đời cha Giuse Trịnh Tiến Khái coi xứ Mỹ Sơn.
Ngày 25.5.1926 Đức Ông đáng kính Bertrand Cothonay trút hơi thở cuối cùng trong sự thương tiếc của đoàn con mà ngài đã gây dựng; xác Ngài được an táng trước thánh đường Mỹ Sơn để con cái sớm hôm thăm viếng và cầu nguyện, ghi nhớ công ơn khai sáng của ngài. Ngày 14.11.2006 Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt đã cải táng phần mộ của Ngài về tòa Giám mục Lạng Sơn.
Sau Đức Ông Cothonay là Đức ông Maillet Bính OP. Ngài tiếp tục đường lối của Đức ông Cothonay, mong muốn các chị em nhà phước hiện diện ở nhiều nơi hơn, nên trong ba năm, Ngài đã lập thêm ba nhà Bản Lìm, Đồng Mỏ và Cao Bằng.
3. Nhà Phước Đa Minh Bản Lìm – Thiết lập năm 1927
Chị Rosa Bùi Thị Ga, gốc nhà phước Bùi Chu làm Bề trên;
gồm có các chị: Maria Trần Thị Ơn, Maria Nguyễn Thị Huệ,
Anna Nguyễn Thị Tuyết, Maria Nguyễn Thị Hiền, Maria Hoàng Thị Ngọc, Maria Nguyễn Thị Thái, Anna Trần Thị Tâm, Macta Nguyễn Thị An.
Nhà Bản Lìm trong hoàn cảnh thuận lợi là sống với thời các cha xứ Việt Nam nhiều hơn như cha Thao, cha Quyến, cha Phú, cha Kế, nên chị em được các cha hướng dẫn trong đời sống thiêng liêng, cũng như dạy kèm thêm văn hóa.
Biến cố di cư 1954, chị em vào miền Nam; gia đình một người bổn đạo vào sống trong ngôi nhà của chị em.
Năm 1990, khi đất nước có chiều hướng mở ra, chị em đã trở về để có thể tiếp tục hiện diện và tái thiết lại, thì gia đình đó đã dời đi nơi khác. Nhưng chị em gặp nhiều khó khăn về tạm trú và đã phải ngậm ngùi ra đi, bỏ lại ngôi nhà vẫn cửa đóng then cài cho đến ngày nay, như dấu chứng của một thời, dấu ấn của một đời!
4. Nhà Phước Đa Minh Đồng Mỏ: thiết lập năm 1927
Chị Maria Nguyễn Thị Nguyện, gốc nhà phước Bùi Chu làm Bề trên cùng với các chị Maria Nguyễn Thị Lành, Maria Nguyễn Thị Nhiệm. Cộng đoàn này năm Nhật đánh Lạng Sơn, các chị bỏ về xuôi hết. Chị Nguyện và chị Nhiệm nhập vào dòng Mân Côi; Chị Lành vào Đa Minh Bùi Chu.
5. Nhà Phước Đa Minh Cao Bằng: Thiết lập năm 1927.
Bà Maria Nguyễn Thị Nha ở nhà phước Cửa Nam lên làm Bề trên tại đây, cùng với các chị: Maria Nguyễn Thị Suy, Maria Trần Thị Tin, Maria Nguyễn Thị Kính, Maria Nguyễn Thị Ngượi, Maria Nguyễn Thị Na, Maria Nguyễn Thị Ơn, Maria Hoàng Thị Nhân.
Nhà Phước Cao Bằng có chị Maria Nguyễn Thị Ơn là chứng nhân của lòng yêu mến Đức Mẹ Mân Côi và phép lần hạt Mân Côi. Chị đã dâng hiến thân mình bằng một cái chết âm thầm với một tình yêu mãnh liệt. Vào cuối năm 1946 trên đường từ Cao Bằng về quê thăm em bị bệnh ở Nước Hai, chị không rời cỗ tràng hạt trên tay. Bị theo dõi và phát giác, người ta bắt chị vứt bỏ cỗ tràng hạt đi, chị không chịu. Trong cương quyết kháng cự, chị đã bị đánh và đẩy xuống vực cho chết luôn.
Trong khoảng thời gian từ 1934 – 1948, Đức Cha Felice Hedde Minh, OP. lập thêm 4 nhà do bốn Chị gốc Nhà phước Bùi Chu làm Bề trên.
6. Nhà Phước Đa Minh Thất Khê
Thành lập năm 1934, gồm có chị Nhất Catarina Trần Thị Khiêm, Maria Nguyễn Thị Cậy, Maria Phạm Thị Nhiệm (Nhì), Maria Nguyễn Thị Nghĩa, Maria Trần Thị Sâm, Agnes Hoàng Thị Mến (Sa), Maria Nguyễn Thị Huệ, Catarina Hoàng Thị Yên, Maria Trần Thị Tịnh,
Maria Trần Thị Na, Têrêsa Nông Thị Tê, Maria Nguyễn Thị A, Maria Dương Thị Thi, Maria Nguyễn Thị Oanh.
Những khuôn mặt thân quen ai cũng biết đến phải kể là chị nhất Khiêm, chị Nhiệm (Nhì), mà người Dân tộc trong bản làng gọi các chị là “Bà xóm đạo - Bà xóm đạo chữa bệnh mát tay lắm!” Các chị đã rửa tội được nhiều trẻ em và người lớn lâm bệnh hiểm nghèo.
Nhà phước Thất Khê trong thời kỳ các nhà thừa sai bị giam giữ tại đây từ năm 1950 -1953, chị em đã giúp đỡ chăm nuôi bốn vị truyền giáo là Đức cha Hedde, Đức Cha Jacq, cha Nerdeux và cha Guibert trong 3 năm 3 tháng 10 ngày. Chị em rất nỗ lực vừa đi lao công cho nhà nước vừa xay thóc giã gạo mướn để có của nuôi các ngài và tiếp tế thuốc men.
Hơn nữa, nhà phước Thất Khê còn dâng hiến cho lòng đất mẹ tấm hình hài của hai người chị em là chị Maria Nguyễn Thị Cậy và Maria Nguyễn Thị Nghĩa bị đánh chết tại Hà Lũng trong khi thi hành sứ vụ ngày 09.12.1946 trên đường đi từ Thất Khê xuống Tòa Giám Mục Lạng Sơn và xác hai chị bị quăng xuống vực sâu.
7. Nhà Phước Đa Minh Quảng Uyên:
Do cha Maillet Bính lập năm 1937 khi ngài nghỉ hưu ở đây. Chị Maria Nguyễn Thị Ro làm Bề trên và các chị em: Maria Nguyễn Thị Kính, Maria Nguyễn Thị Ngượi, Maria Nguyễn Thị Nhạn (Bà Mến), Maria Nguyễn Thị Phan (Em Bà Mến), Maria Nguyễn Thị Nhường, Maria Nguyễn Thị Chi, Rosa Nguyễn Thị Khiêm, Maria Nguyễn Thị Suy, Maria Hoàng Thị Nhân.
Chị em Quảng Uyên được cha Maillet thương giúp và chỉ bảo tận tình trong công việc lao động chân tay. Các chị cũng đã chứng kiến cái chết của cha Maillet Bính, Brébion Úy và cha Giuse Nguyễn Văn Đề.
Chị em đã an táng cha Brébion Úy bên cạnh nhà thờ Quảng Uyên năm 1947. Hiện nay nhà thờ đã bị phá bình địa và là khu quân đội chiếm đóng. Đã có những sự kiện lạ nơi mộ của ngài, nên dù mộ không được xây cất hẳn hoi, chỉ là những hòn đá xếp lên trên mà vẫn còn nguyên đó, không ai dám động đến! Còn cha Maillet Bính và cha Đề thì bị thủ tiêu mất tích.
Năm 1949, chị em bị đuổi khỏi Quảng Uyên, một số chị đến ở Cao Bằng, một số về giúp nhà khuyết tật, mồ côi tại Cửa Nam.
8. Nhà Phước Đa Minh Đồng Đăng:
Do cha Arbogast Haag Đỗ Minh Xuyên OP. lập năm 1941, nằm dưới chân đồi nhà xứ Đồng Đăng, đối diện ga tầu lửa. Gồm có chị Nhất Maria Nguyễn Thị Vững, Chị Maria Nguyễn Thị Tin, Anna Trần Thị Cậy, Maria Mai Thị Mầu (Mến), Anna Nguyễn Thị Ri, Maria Nguyễn Thị Hiền. Năm 1954 chị em di cư hết. Ngôi nhà của chị em được nhà nước trưng dụng làm nhà kho.
9. Nhà Phước Đa Minh Lộc Bình:
Lập năm 1948 ở giữa khu phố Lộc Bình. Chị Nhất Maria Vũ Thị Vâng, Maria Nguyễn Thị Chuyền, chị Maria Nguyễn Thị Chiên.
Ở đây, chị Vâng làm thuốc chữa bệnh rất được tín nhiệm. Có lần ông chánh tổng trong làng đem ngựa đi đón chị về nhà chữa bệnh cho con ông. Chị Vâng có dạng người to lớn, oai vệ, đã ngồi trên lưng ngựa để ông dắt đi, vì đường rừng, xa xôi. Một hình ảnh thật ấn tượng! Chị Chuyền thường ra suối chao tép đổi lấy gạo để có lương thực giúp người nghèo. Sau di cư, gia đình ông Cung đến ở nhà các chị cho đến ngày nay.
Nhờ ơn Chúa, ơn gọi ở các miền xuôi đem tới, số chị em mỗi ngày thêm đông từ các giáo phận Bùi Chu, Hải Phòng và Bắc Ninh.
Năm 1948, địa phận có 9 nhà phước và khoảng 50 nữ tu.
Nói chung, các nhà phước sống tự lập, số các chị em ở mỗi nhà đã phát triển nhiều ít tùy nhu cầu công việc tại chỗ và tùy cha xứ.
Mấy nhà được biết đến hơn trong thời bình (trước 1945) là Mỹ Sơn, Bản Lìm, Thất Khê; các nhà này cũng là những nơi có đông các chị hơn cả.
Một đặc điểm nói lên tính chuyên tu và từ bỏ để theo Chúa của các chị là khi vào tu, các chị thường không gọi tên theo như gia đình đã đặt cho, mà nhận một tên khác theo ngôn từ nhà đạo, diễn tả nét khiêm nhu, hiền lành, đạo đức như: Tin, Cậy, Kính, Mến, Ơn, Nghĩa ... nên đã có sự trùng lắp tên nhau.
Quả thực, trong việc khai phá, truyền giảng Tin Mừng tại giáo phận Lạng Sơn, sát cánh với các nhà thừa sai Đa Minh Lyon và các cha Việt Nam trong việc thiết lập và phát triển các giáo xứ trong giáo phận, phải kể đến rất nhiều công khó của chị em nhà phước Đa Minh Lạng Sơn.
Là những cô gái trẻ, đầy nhiệt huyết tông đồ, hàng ngày chị em lao động cần cù để có lương thực nuôi sống mình và giúp nuôi các chủng sinh cũng như các nhà thừa sai trong thời kỳ giam cầm tù tội. Là những bà lang đi chữa thuốc miễn phí, các chị có thể len lỏi vào mọi ngõ ngách của đời sống dân làng. Bằng lời cầu nguyện, chị em là hậu phương vững chắc nâng đỡ tinh thần các vị truyền giáo, giúp dân chúng cầu nguyện và thông hiểu lẽ đạo. Cách thức hiện diện của các chị đã đóng góp rất nhiều thành quả cho việc truyền giáo của giáo phận thuở ban đầu.
Năm 1949, sau khi nhận trách nhiệm Giáo phận Lạng Sơn, Đức cha André Réginal Jacques Mỹ OP. đặc biệt lưu ý đến các chị em, lo lắng chuẩn bị xây cất cơ sở để chị em được tụ họp và học tập trở thành nữ tu có lời khấn theo Giáo Luật. Nhưng công việc xây cất mới bắt đầu, thì năm 1954 hiệp định Genève ra đời, phong trào di cư đưa một số chị em nhà phước Lạng Sơn vào miền Nam.
Tu viện Đa Minh Lạng Sơn Xóm Mới, Gò Vấp, Gia Định, là nơi chị em dừng chân đầu tiên.
2. GIAI ĐỌAN ĐẦU TẠI MIỀN NAM (1954 – 1956)
Biến cố di cư đã mang một ý nghĩa sâu xa đặc biệt trong ý hướng nhiệm mầu của Thiên Chúa là làm nên một Hội Dòng thực thụ sau này.
Do sự chỉ đạo của Đức cha André Jacq và sự hướng dẫn trực tiếp của cha chính Micae Nguyễn Khắc Ngữ khi đưa chị em di cư, mà chính tại khu Lạng Sơn Xóm Mới này, chị em các nhà phước hợp thành một cộng đoàn duy nhất là NHÀ PHƯỚC ĐA MINH LẠNG SƠN XÓM MỚI; bà Catarina Trần Thị Khiêm làm Bề trên.
Ra đi mang được những gì, chị em gom góp vào thành một quĩ chung, cùng sát cánh bên nhau, nâng đỡ nhau sống đời tu trì ngay giữa những lạc lõng, bơ vơ, lạ lẫm nơi đất khách quê người.
Hàng ngày chị em làm bánh, làm vườn, làm thuốc, chăn nuôi… Khi cuộc sống tạm ổn định, chị em được cha chính Micae Nguyễn Khắc Ngữ giúp nâng cao trình độ văn hóa. Ngài sắp xếp để các cha gốc Lạng Sơn dạy chị em học, luyện cho chị em đi thi lấy bằng cấp để có thể đi dạy học cho các trẻ nhỏ tại các trường nhà xứ.
Từ đây, chị em lại được sai đi các nơi để phục vụ theo nhu cầu địa phương.
Tháng 7/1955 khi dinh điền Cái Sắn, Kiên Giang khai mở, dưới sự lãnh đạo tinh thần của cha cố Giuse Vũ Toàn (gốc Lạng sơn), 10 chị em đã xuống phá cỏ ở miền đất phèn đồng hoang này được 4 lô đất (12 mẫu tây). Chị Maria Nguyễn Thị Kính là phụ trách cộng đoàn Kênh 3.
Cũng năm ấy, theo lời yêu cầu của các cha dòng Đa Minh Lyon, Dòng đã đưa một số chị lên Tùng Nghĩa – Đức Trọng; gồm có Chị Maria Nguyễn Thị Ro – Phụ trách, cùng với các chị: Maria Nguyễn Thị Ngợi, chị Maria Nguyễn Thị Phan, chị Maria Nguyễn Thị Suy và Maria Nguyễn Thị Nhường. Các chị đã cùng với người dân tộc gốc Cao Bằng, Lạng sơn di cư đến.. phá rừng làm rẫy, thành lập cơ sở Tùng Nghĩa.
Năm 1956 Đức cha André Jacq, bấy giờ là Đức cha phó địa phận Lạng sơn. Tuy vẫn còn ở lại đất Bắc, nhưng Ngài vẫn quan tâm và ưu ái đối với chị em. Ngài đã truyền cho cha chính Micae Nguyễn Khắc Ngữ dùng qũy của địa phận xây nhà cho chị em và trao cho cha Đaminh Nguyễn Văn Lãng đứng trông coi xây cất Tu viện cho chị em. Đó là một dãy nhà lầu, sàn gỗ; có thể nói đây là ngôi nhà nguy nga lớn nhất vùng lúc đó.
PHẦN II: THỜI KỲ CẢI TỔ VÀ PHÁT TRIỂN
(1956 – 1978)
I. GIAI ĐỌAN CẢI TỔ (1956 -1962)
Năm 1955 Thánh Bộ Truyền Giáo chấp thuận để các cha dòng Đa Minh Manila cải tổ các nhà phước Đa Minh miền Nam cho thành nữ tu có lời khấn theo Giáo Luật.
Ngày 02.02.1956 một số chị em nhà phước Đa Minh Lạng Sơn được cha chính Micae Nguyễn Khắc Ngữ gửi về học tập tại Hố Nai – Biên Hòa với các chị em nhà phước Đa Minh của 4 địa phận gốc: Bùi Chu, Thái Bình, Hải Phòng, Bắc Ninh.
Ngày 24.4.1957 nhà phước Lạng Sơn có 4 chị được tuyên khấn đầu tiên: Chị Catarina Trần Thị Khiêm, Anna Nguyễn Thị Tuyết, Maria Trần Thị Ơn, Maria Nguyễn Thị Nhường.
Đầu năm 1958 dòng Đa Minh Bùi Chu Tam Hiệp rút khỏi Hố Nai, thì ngày 08.02.1958 chị em Lạng Sơn cũng được Cha Chính giáo phận xin cho sát nhập tạm thời với dòng Đa Minh Bùi Chu, Tam Hiệp, trong tinh thần và đường lối huấn luyện đào tạo Tập sinh để được khấn, chờ ngày có hoàn cảnh sẽ thành lập hội dòng riêng. Vì thế, tuy nhập vào Hội Dòng Bùi Chu ở Tam Hiệp, chị em Lạng Sơn vẫn độc lập về nhân sự và tài chánh theo văn kiện mà Bề trên hai Giáo phận thỏa thuận. (Văn thư ngày 08.8.1958)
Hàng năm, nhà Lạng Sơn gửi người vào Tập viện.
Năm 1958 nhà Đa Minh Lạng Sơn đã đủ số nữ tu để thành lập Tu viện.
Ngày 02.2.1959, Tu viện Đa Minh Lạng Sơn được chính thức thiết lập qua văn thư của Mẹ Bề trên Dòng Đa Minh Bùi Chu Tam Hiệp.
Chị Catarina Trần Thị Khiêm được cắt cử làm tu viện trưởng tiên khởi.
Tu viện là trụ sở chính của Dòng, có trường Đệ Tử với 30 nữ tu; có những Tu sinh trẻ, không phải là người nhà phước cũ.
Quả thực, Thiên Chúa đã dùng những yếu tố thô sơ tầm thường để làm nên những điều huyền diệu; đã biểu lộ quyền năng và tình thương của Người qua những biến cố!
2. GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN ( 1962-1975)
Sau khi được cải tổ thành nữ tu có lời khấn, chị em được sự quan tâm đặc biệt của quí Đức cha, cha chính Micae Nguyễn Khắc Ngữ và quí cha gốc Lạng Sơn. Về tu đức, thần học, chị em được quí cha huấn đức, dạy giáo lý; nhất là Đức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình chấp thuận cho cha Giuse Thân Văn Tường, (nguyên là Giám đốc Tiểu Chủng viện Lạng Sơn di cư) du học nước ngòai về - đang làm phó Giám đốc ban Thần học Đại Chủng viện Saigon - Ngài giúp đỡ, hướng dẫn và lo liệu để chị em trở thành một Hội Dòng.
Về văn hóa, chị em được gửi theo học tại các trường Trung và Đại học, các lớp bồi dưỡng sư phạm, chuyên nghiệp…để lấy bằng cấp mở trường dạy học, đáp ứng nhu cầu của xã hội và Giáo hội theo hướng đi của dòng là giáo dục thanh thiếu niên. Nếp sinh họat của chị em đã có sự chuyển tiếp rõ ràng từ lao động chân tay sang lao động trí thức.
Năm 1962, khi Giáo phận mới Long Xuyên lập Tiểu chủng viện Á Thánh Phụng ở Châu Đốc, Dòng đã cử Chị Agatha Nguyễn Thị Nghĩa và một số chị em đến giúp.
Tiếp theo, một số cộng đoàn được thiết lập tại Gíao phận Long Xuyên:
• 1962 - 1976: Cộng đoàn Vàm Cống;
Bề trên : Chị Maria Trần Thị Tịnh
1963 - 1971: CĐ Sao Mai;
Bề trên: Chị Anna Nguyễn Thị Tuyết
30/4/1963: C.đoàn Kênh Đ1;
Bề trên: Chị Maria Trần Thị Mát
Sau biến cố Mậu Thân năm 1968, qua sự cố vấn của Cha Giuse Thân Văn Tường, Đức Cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ đã giao trường Trung tiểu học Dũng Lạc và cơ sở Lưu học xá Dũng Lạc (2 cơ sở này của địa phận Lạng Sơn) cho Hội Dòng. Bề trên Martha Nguyễn Thị An - đại diện Hội Dòng đứng ra tiếp nhận và phân công Chị Têrêsa Đỗ Thị Minh làm Hiệu trưởng Trường Trung tiểu học Dũng Lạc.
Đồng thời, tại khu vực cơ sở Lưu Học xá Dũng Lạc, ngày 04/5/1969, Hội dòng đã thiết lập Cộng đoàn Mỹ Sơn, mở Ký nhi viện và nhận học sinh Nội trú cấp I – II; Chị Maria Trần Thị Ơn phụ trách cộng đoàn.
Năm 1972, thiết lập Cộng đoàn Kiên Tân, Tân Hiệp, Kiên Giang, GP Long Xuyên (1972 – 1984)
Tháng 3/1973, khi cha Giuse Maria Phạm Quang Thiều đưa dân di cư từ miền trung vào định cư tại Quốc lộ 20, cây số 130; Ngài đã xin chị em đến giúp. Hội Dòng phân công Chị Catarina Hoàng Thị Yên, Chị Phạm Thị An và Võ Thị Quyền đến phục vụ. Ngày 15/3/1973, thiết lập cộng đoàn Ngọc Lâm.
Vào những năm từ 1968-1975, Dòng đang trên đà phát triển khả quan. Số chị em khấn trẻ gia tăng đều đặn, nên ngày 12-7-1973 chị em đã được phép có Học viện riêng. Dòng đã có 65 Nữ tu; 70 Đệ Tử; 10 cộng đòan, hiện diện trong 4 giáo phận Saigon, Long xuyên, Đà Lạt, Xuân Lộc. Chị em điều hành trường Trung - Tiểu học Dũng Lạc cấp I – III với 1600 học sinh; 3 trường Tiểu học, 3 ký túc xá.
Tại Tùng Nghĩa, ngòai việc điều khiển trường Tiểu học Trinh Nữ vương (750 hs) giáo dục con em người Việt gốc Nùng, Thổ…chị em còn giúp các cha Đa Minh Lyon họat động truyền giáo ở khu Bắc Thái, đi sâu vào các làng Thượng để dạy giáo lý, phát thuốc, trị bệnh…
3. THỜI KỲ THỬ THÁCH : BIẾN CỐ 1975
Biến cố Giải phóng Miền Nam 30.4.1975 đưa đến một hòan cảnh mới: Không còn trường học, nhà Đệ tử giải tán, đường học vấn của các chị em trẻ bị khép lại. Các em Đệ tử còn thiện chí theo ơn gọi thì xếp bút nghiên để lao động, chăn nuôi, canh tác….Trước ngỡ ngàng và giao động của một số chị em trẻ, sự phấn khích đỡ nâng của các chị cao niên đi trước, giúp họ đón nhận biến cố trong niềm tin và phấn đấu vượt qua trong bình an.
Dòng thiết lập thêm 3 cộng đòan tại Miền tây:
• Ngày 15/5/1975: Cộng đòan Cái Dầu;
Bề trên : Chị Têrêsa Nguyễn Thị Kim Ánh.
• Ngày 01/8/1975:Cộng đoàn Kênh Zêrô; Bề trên : Chị Têrêsa Trần Thị Hoa
• 1975 – 1994 : Cộng đoàn Kênh G1; Bề trên: Chị Têrêxa Nguyễn Thị Thúy
Không còn cơ sở dạy học, chị em rao giảng Tin Mừng bằng đời sống cầu nguyện và lao động chân tay. Chỉ còn một số rất ít chị em tham gia trực tiếp việc giáo dục như: Chị Vũ Thị Chín, Hiệu trưởng nhà trẻ (28.7.1975 đến 7/2005 ); Chị Đỗ Thị Minh, Nguyễn Thị Mai Phương và Chị Hoàng Thị Yến sang làm giáo viên trường cấp II Phan Tây Hồ (1975 – 1976); một số chị dạy mẫu giáo hoặc làm việc trong tổ hợp thêu, sản xuất hàng xuất khẩu. Ở đâu và làm gì chị em cũng cố gắng thích nghi hội nhập với hoàn cảnh và sống tinh thần Phúc Âm.
Ngày 08.01.1976, nhà nước tiếp quản trường Trung tiểu học Dũng Lạc và đổi thành trường cấp I An Nhơn, nay là trường Tiểu học Lê Thị Hồng Gấm.
Đặc biệt trong thời gian sau ngày giải phóng, sự liên lạc của chị em với nhà trung ương tại Tam Hiệp gặp trở ngại và khó khăn, nên ngày 20.3.1976, chị em Đa Minh Lạng Sơn đã được phép thiết lập Tập viện của Dòng tại cộng đòan Kiên Tân và Tu Viện Rosa Lima.
Thời gian từ 1962 đến 1980 là hai thời điểm thịnh và suy của lịch sử Hội dòng, dưới sự lãnh đạo của Bề trên Anna Trần Thị Tâm. Dù thuận lợi hay không thuận lợi, Bề trên Tâm cũng để lại trong lòng chị em một dấu ấn khó phai trong cung cách điều hành chị em.
Thật vậy, từ 1975-1980 là giai đoạn thử thách với nhiều biến động và chuyển hướng! Nhân sự giảm sút đáng kể và không có ơn gọi mới. Các trường học bị bàn giao. Các chương trình học bị gián đoạn, chị em chuyển sang lao động chân tay, nhưng vẫn tích cực phục vụ tại các giáo xứ. Trong bối cảnh đất nước và trước một tương lai vô định với nhiều thử thách, cam go, Chị vẫn luôn tin vào Chúa, cậy vào ơn Chúa mà kiên vững trong sứ vụ dẫn dắt Hội dòng cách bình an và êm xuôi, khiến chị em vững tâm và kiên trì trong ơn gọi.
PHẦN III
THỜI KỲ CHÍNH THỨC LÀ HỘI DÒNG ĐA MINH LẠNG SƠN, THÁNH HIỆU ĐỨC MẸ MÂN CÔI
GIÁO PHẬN TP. HỒ CHÍ MINH (1978 - 2013)
I. CHÍNH THỨC LÀ MỘT HỘI DÒNG ĐỘC LẬP
Tình thương Thiên Chúa dẫn đưa thật diệu kỳ, Ngài đóng lối này Ngài lại khai mở nẻo khác, để dẫn đưa đoàn con trên đường hiến dâng phục vụ.
Hoàn cảnh đất nước sau ngày giải phóng đã đưa chị em Đa Minh Lạng Sơn đến một nhu cầu cần được giải quyết là xin đứng thành một hội dòng riêng, để tránh nhiều rắc rối khó khăn về việc quản trị cũng như đời sống nội bộ. Ngày 01-11-1978 ban đại diện nữ tu Lạng Sơn trình bầy nguyện vọng thành lập hội dòng với cấp trên của hội dòng Đa Minh Bùi Chu Tam Hiệp. .. Sau đó, Ban Đại diện đã lên xin Đức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình, cho Hội Dòng nữ Đa Minh Lạng Sơn được thành lập.
Ngày 08-12-1978, Đức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình, đã ký sắc lệnh thành lập HỘI DÒNG NỮ ĐA MINH LẠNG SƠN thánh hiệu Đức Mẹ Mân Côi, Giáo phận Tp. Hồ Chí Minh
Ngày 18.01.1979 Đức Tổng Giám mục đã công bố thành lập Hội dòng tại nguyện đường Tu viện Đa Minh Lạng Sơn, Xóm Mới.
Ngày 02.02.1980: Khai mạc Tổng hội đầu tiên của Dòng.
Ngày 04-02-1980 Đức Tổng Gíam mục Phaolô Nguyễn Văn Bình chủ tọa buổi bầu Bề trên Hội dòng.
Chị Macta Nguyễn Thị An đắc cử Bề trên Tổng quyền tiên khởi, nhiệm kỳ 6 năm (1980 – 1986)
Ban Tổng Cố vấn
I : Têrêsa Đỗ Thị Minh
II : Catarina Hoàng Thị Yên
III : Têrêsa Nguyễn Thị Mai Phương
IV : Têrêsa Nguyễn Thị Mỹ[
Tổng hội I : Tổng hội Lập pháp; vì thế, công việc chính yếu tiếp theo là Tổng hội duyệt xét, biểu quyết những khoản luật Hiến pháp mới, Chỉ Nam, Tục lệ.
Ngày 13-4-1980 Đức Tổng Gíam mục Giáo phận Tp. HCM đã phê chuẩn Hiến pháp mới của Dòng. Một nét thay đổi của Tổng hội về y phục dòng chị em Đa Minh Đức Mẹ Mân Côi - Lạng sơn là khăn lúp trắng không bìa.
Ngày 19.6.1980 cha Bề trên Cả Vincentius de Couesnogle O.P. ở Roma, gửi văn thư tuyên bố nhận Hội dòng vào Gia đình Đa Minh với tất cả các đặc ân thiêng liêng. Tất cả là hồng ân. Chị em toàn Hội dòng đã đón nhận kết quả của Tổng hội như mỗt lễ Hiện Xuống mới, trong một thời đại mới. Ơn Chúa Thánh Thần ở đây chính là đưa chị em quay về với căn tính đời tu, là từ bỏ những chỗ đứng quen thuộc để đón lấy những cách nhìn, cách hiểu và hành động mới mà dấn bước theo Chúa Kitô, sống nghèo giữa những người nghèo và phục vụ họ trong chia sẻ, yêu thương.
Nhưng dòng thời gian đã không êm đềm lặng lẽ trôi như cuộc sống âm thầm của chị em, mà là đã có sóng gió nổi lên. Ngày 24.3.1984 một biến cố ập đến cho cộng đoàn chị em ở Kiên Tân, Tân Hiệp, Kiên Giang: cả cộng đoàn chị em gồm 7 người đều bị cơ quan chính quyền bắt giam giữ, lý do là bị ghép vào tội chính trị: tàng trữ tài liệu phản cách mạng và đốt tài liệu. Sau 3 tuần bị tạm giam vô cớ, bảy chị em được tha về với điều kiện phải bỏ đời tu trì, về với gia đình và phải hiến cơ sở cho nhà nước địa phương. Hội dòng đã hết sức lo liệu xin các cơ quan thẩm quyền cứu xét. Sau bao nhiêu đơn từ kêu cứu tới tận trung ương hầu như rơi vào quên lãng!!! Hội dòng thà mất cơ sở chứ không để mất người chị em nào. Bảy chị đã trở về tu viện nhà mẹ tại Xóm Mới tạm trú, với lý chứng duy nhất là đuổi chị em về gia đình thì nơi đây là gia đình của chị em.
Còn cơ sở thì nhà nước vẫn trưng dụng cho đến ngày hôm nay.
Tổng Hội II từ ngày 13.2 đến 24.2.1986 : Tổng hội tập trung đào sâu Tinh Thần Dòng và Ơn gọi Đa Minh Lạng Sơn.
Chị Macta Nguyễn Thị An tái cử Bề trên Tổng quyền, nhiệm kỳ 6 năm (1986 – 1992)
Ban Tổng Cố vấn:
I : Têrêsa Đỗ Thị Minh
II:Têrêsa Nguyễn T. Mai Phương
III : Têrêsa Trần Thị Hoa
IV: Catarina Hoàng Thị Yên
Từ năm 1988, bắt đầu đón nhận các chị em từ miền Bắc gia nhập Hội dòng. Đây là kế hoạch nhằm chuẩn bị nhân sự để có thể tái lập các cộng đoàn phục vụ Giáo phận Lạng Sơn.
Với hai nhiệm kỳ từ năm 1980 – 1992 là hai khoảng thời gian của khép kín với nhiều khó khăn, và mở ra với những chuyển biến của thời cuộc. Bề trên Tổng quyền Macta Nguyễn Thị An đã lèo lái và hướng dẫn Hội dòng trong mọi nỗi thăng trầm ấy với lòng tin tưởng, cậy trông.
Trong chiều hướng mở ra của xã hội, cùng với hướng đi của Tổng Hội III là tái lập các cộng đoàn miền Bắc, thì Chị sẵn sàng lên đường về Lạng Sơn khi vừa mãn nhiệm Bề trên Tổng quyền. Điều đáng nêu gương và học hỏi nơi chị là dù bao năm trong chức vụ Bề Trên, cai quản, điều hành…. nhưng khi trở về hàng ngũ chị em là bề dưới, chị vẫn một mực khiêm tốn, vâng phục.Trong đời sống tâm linh, kinh nguyện, Chị là nữ tu mực thước. Luật dòng lấy đời sống chứng tá là việc tông đồ đầu tiên của chị em, thì Chị đã thể hiện một cách tuyệt vời.
Tổng Hội III, Ngày 06/02/1992 – 16/02/1992
Chị Têrêxa Đỗ Thị Minh đắc cử Bề trên Tổng quyền, nhiệm kỳ 6 năm 1992 – 1998.
Ban Tổng Cố vấn:
I : Têrêsa Nguyễn Thị Mỹ
II : Têrêsa Trần Thị Hoa
III : Maria Vũ Thị Chín
IV : Maria Nguyễn Thị Thoa
Tổng hội III đã dành nhiều thời gian trao đổi hướng về Sứ vụ Truyền giáo; đốt nóng chị em với “nhiệt tâm lên đường truyền giáo”. Đồng thời, Tổng hội đồng ý việc soạn thảo Hiến pháp chung với ba Dòng nữ Đa Minh Tam Hiệp, Thánh Tâm và Xuân Hiệp. Do đó, trong khi chờ đợi bản Hiến pháp chung này, Tổng hội quyết định vẫn duy trì Hiến pháp riêng của Hội Dòng Đa Minh Lạng Sơn hiện đang thử nghiệm.
II. GIAI ĐỌAN MỞ CỬA - TÁI THIẾT ( 1990 - 2013)
1. Tại miền Nam
Từ năm 1990 để đáp ứng nhu cầu cấp bách của xã hội, nhà nước mở các lớp đào tạo Sư phạm Mầm non cho các nữ tu, được dạy học và mở trường Mẫu giáo Dân lập. Chị em các nơi mau chóng quay về với sứ vụ giáo dục của Dòng.
Tại nhà Trung ương Xóm Mới, ngoài việc cho một số chị em ghi danh vào các trường đại học mở Bán công, ngoại ngữ; ngay từ tháng 9/1989, Chị em đã bắt đầu nhận một số cháu mẫu giáo và kèm trẻ cấp I. Chị Hoàng Thị Yến, chị Trương Thị Quý, Nguyễn Thị Hòa… phụ trách các lớp mẫu giáo; đó chính là trường Mẫu giáo Mỹ Sơn hiện nay. Ngày 20/7/1992, chị Đào Thị Hiến, chị Võ Thị Quyền nhận các cháu từ Lạng Sơn vào và mở nhà Nội Trú; nay là Cộng đoàn Các Thánh Tử Đạo Dũng Lạc. Tiếp theo là Chị Nguyễn Thị Bảo Ngọc nhận dạy kèm học sinh Cấp Một, nay là trường Bán trú cấp I Lạng Sơn.
Trong chiều hướng mở ra của đất nước, vào những năm chị Têrêsa Đỗ Thị Minh gánh vác công việc lãnh đạo phục vụ Hội dòng, kế thừa sự nghiệp của các vị tiền bối, Hội dòng Đa Minh Lạng Sơn cũng thay da đổi thịt. Hầu hết các khu nhà của Tu viện Trung ương và cộng đoàn trong nhiều năm qua đều đã xuống cấp một cách trầm trọng. Chính trong giai đọan này, các công trình đã lần lượt được xây dựng:
• Ngày 13-12-1996: khánh thành dãy nhà lầu 3 tầng: nhà nguyện, Học viện, Thỉnh viện, hội trường, nhà cơm.
• Ngày 16/10/1996: khánh thành Trường Mẫu giáo Mỹ Sơn.
• Ngày 13/12/1999: khánh thành khu nhà ban Tổng Quản trị, nhà Khấn và nhà Tập.
• Ngày 23/12/2000: khánh thành nhà Ngọc Lâm.
• Ngày 23/7/2001: khánh thành nhà Kênh Đ1.
Tất cả là hồng ân! Chúa đã biến đổi vũng nên đồi, để Nhà Chúa trở nên xứng đáng hơn và để con cái Chúa có điều kiện tốt hơn trong cuộc sống yêu thương phục vụ.
Đặc biệt, song song với những công cuộc xây dựng cơ sở vật chất, thông qua các Tổng hội, Hội dòng đã chú tâm canh tân đời sống tinh thần, xây dựng căn nhà nội tâm, đổi mới công tác đào tạo, canh tân đời sống cộng đoàn; từ đó nuôi dưỡng và phát xuất ra một sức mạnh tông đồ truyền giáo.
Điểm nổi bật, Hội dòng còn lo đầu tư văn hóa kiến thức chuyên môn đạo, đời, bằng cách cho chị em đi học ở nhiều nơi, nhiều lãnh vực, có những cánh chim đã bay đi thật xa để thâu thái đạo đức, kiến thức, văn hóa nước người tại Mỹ, Pháp, Ý, Thụy Sỹ, Philippines. Ngày 24/11/1996, chị Têrêxa Nguyễn Thị Mai Phương và chị Maria Trương Thị Quý, là hai chị đầu tiên rời Việt Nam du học tại Ambrosio University, California, USA. Ngày 20/9/2011 đã thành lập cộng đoàn Đức Mẹ Thăm Viếng tại Oaklahoma City, USA.
Tổng hội IV từ ngày 17/3/1998 đến 26/3/1998: Chị Têrêsa Đỗ Thị Minh tái đắc cử Bề trên Tổng quyền nhiệm kỳ 4 năm 1998 – 2002.
Ban Tổng Cố vấn :
I : Têrêsa Nguyễn Thị Mỹ
II : Maria Vũ Thị Chín
III : Maria Bùi Thị Điểm
IV: Maria Nguyễn Thị Thoa
Niềm thao thức lớn nhất của Tổng hội này là “Đổi mới hoạt động Đào tạo” và nâng cao trình độ học vấn của chị em; đồng thời, củng cố đời sống thánh hiến và phát huy tinh thần trách nhiệm cộng đoàn. Tổng hội đã duyệt xét và chấp thuận thử nghiệm bản dự thảo Chỉ Nam của Dòng.
Tổng hội V từ 17/02/2002 đến 01/3/2002. Chị Têrêxa Đỗ Thị Minh tái đắc cử Bề trên Tổng quyền, NK 2002 – 2006.
TCV.I : Maria Vũ Thị Chín
TCV.II : Têrêsa Nguyễn Thị Mỹ
TCV.III : Maria Hoàng Thị Yến
TCV.IV : Anna Đồng Thị Nên
Ngày 06.9.2002, Chị Anna Đồng Thị Nên được Chúa gọi về, chị Maria Nguyễn Thị Hòa đã thay chức vụ Tổng CV. IV.
Chủ đề Tổng hội V: “Canh tân đời sống cộng đoàn”. Tinh thần đời sống chung huynh đệ như men muối, thúc đẩy chị em hăng say thi hành sứ vụ trong cánh đồng truyền giáo. Hội dòng đặc biệt quan tâm và ưu tiên cho những địa điểm truyền giáo của dòng như Tùng Nghĩa, Cái Dầu, Lạng Sơn. Đồng thời các chị em trẻ cũng được sai đi thực tập tông đồ truyền giáo ở những vùng sâu vùng xa.
Trong nhiệt tâm truyền giáo này, ngày 27/5/2002, chị Maria Nguyễn Thị Sao đặt chân đến vùng đảo Phú Quốc; đến ngày 09/02/2003 thì cộng đoàn Phú Quốc được chính thức thành lập.
Ngày 20/5/2003 Hội dòng thành lập cơ sở truyền giáo tại làng dân tộc K’Nai, huyện Đức Trọng, Lâm Đồng; Chị Maria Nguyễn Thị Ơn phụ trách.
Ngày 8/12/2003: Hội dòng long trọng mừng kỷ niệm 25 năm (1878 – 2003) thành lập Hội dòng nữ Đa Minh Lạng Sơn thánh hiệu Đức Mẹ Mân Côi, Giáo phận Tp. Hồ Chí Minh và 85 năm khai sinh Nhà phước đầu tiên của Dòng tại Cửa Nam, Lạng Sơn năm 1918.
Thánh lễ Tạ ơn mừng Ngân Khánh Hội dòng do Đức cha Phụ tá Giuse Vũ Duy Thống - đại diện Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, đã chủ tế lúc 9g30 tại thánh đường giáo xứ Lạng Sơn với hơn 80 cha đồng tế và khoảng 1000 giáo dân tham dự.
Trước lễ, lúc 8giờ có sinh hoạt truyền thống dòng được trình diễn tại hội trường trong bầu khí trang nghiêm và cảm động. Nổi bật lên những nét độc đáo của đất mẹ Lạng Sơn, của sứ vụ truyền giáo trên mảnh đất quê hương này, nơi mà, “cái nôi nhà phước Đa Minh Lạng Sơn” được thành lập từ năm 1918. Dịp này, Hội dòng cũng thực hiện một tập kỷ yếu và một phòng truyền thống khá quy mô, ghi dấu một chặng đường dài trong ẩn khuất và 25 năm chính thức công khai. Dư âm của ngày lễ mừng đã cho chị em nhiều phấn khởi, nhiều niềm vui, vì được góp mặt với các hội dòng khác trên hành trình đi lên của lịch sử.
Mái Ấm Hoa Hồng Củ Chi: Khởi đi từ những trăn trở, bức xúc khi chứng kiến những cảnh sống thiếu thốn, khổ cực, cô đơn, buồn tủi của những cụ già neo đơn, những cháu bé mồ côi khuyết tật mà chị em đối diện hằng ngày khi phục vụ tại các nơi có cộng đoàn của Dòng hiện diện; ngày 01/7/2004, Hội dòng đã thành lập cơ sở mang tên “Mái Ấm Hoa Hồng” tại Củ Chi, Tp.HCM, thuộc Giáo phận Phú Cường và thiết lập cộng đoàn chị em trực tiếp phục vụ Mái ấm. Chị Giám đốc Mái ấm Têrêsa Nguyễn Thị Mỹ cũng là Bề trên Cộng đoàn Củ Chi.
Tổng hội VI: từ ngày 05/02/2006 đến 18/02/2006 với chủ đề “Cộng đoàn sống Lời Chúa”. Một lần nữa, Chị Têrêxa Đỗ Thị Minh tái đắc cử Bề trên Tổng quyền lần thứ 4, nhiệm kỳ 2006 – 2010.
Ban Tổng Cố vấn:
I : Maria Bùi Thị Điểm
II : Maria Hoàng Thị Yến
III : Maria Nguyễn Thị Thoa
IV : Maria Vũ Thị Ngọc Thảo
Cùng với Giáo hội, chị em sống Lời để được Lời hướng dẫn trung thành với linh đạo của Dòng và cùng nhau lên đường loan báo Tin Vui đến mọi biên cương.
Ngày 30/8/2008: khánh thành trường Mầm non Bông Hồng - Tùng Nghĩa. Trường MN Bông Hồng chính là trường tiểu học Trinh Nữ Vương của Dòng, được nhà nước trao trả lại sau hơn 30 năm tiếp quản.
Ngày 07/02/2010: khánh thành Trường Mẫu giáo Họa Mi, thuộc Cộng đoàn Cái Dầu, xã Bình Long, huyện Châu Phú, An Giang.
Từ năm 2004, chị em du học lần lượt trở về phục vụ : Chị Maria Bùi Thị Điểm (2004), Chị Maria Nguyễn Thị Bảo Ngọc (2007); Chị Maria Nguyễn Thị Kim Oanh (2009); Chị Maria Đỗ Thị Yến (2009) và chị Maria Nguyễn Thị Ngọc (2011).
Tổng hội VII: từ 10/6/2010 đến 20/6/2010.
chủ đề: “Canh Tân Hiệp Nhất trong Đức KiTô”.Tổng hội diễn ra trong Năm Thánh Giáo Hội Việt Nam với những giáo huấn của Giáo hội về ba chiều kích: Mầu Nhiệm - Hiệp Thông - Sứ Vụ, là định hướng giúp chị em thực thi chủ đề của Tổng hội cách rộng mở viên mãn hơn trong đời sống hiến dâng và trong lòng Giáo hội Việt Nam.
Tổng hội VII cũng đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử của Hội dòng với sự đắc cử của tân Bề trên Tổng quyền Maria Bùi Thị Điểm, Nk. 2010-2014.
Ban Tổng Cố vấn với những khuôn mặt mới:
I : Têrêsa Đỗ Thị Minh
II : Maria Nguyễn Thị Bảo Ngọc
III: Maria Đỗ Thị Yến
IV: Maria Nguyễn Thị Kim Oanh
Cách riêng, với nguyên Bề trên Tổng quyền Têrêsa Đỗ Thị Minh, người đã dẫn dắt hội dòng suốt 20 năm qua, với bao công sức lao nhọc, phấn đấu để đưa Hội dòng đi lên với thành quả như ngày hôm nay. Đến Tổng hội này, có thể nói là một điểm dừng trên hành trình của chị, vì gánh nặng đã có người kề vai vác đỡ. Dừng để rồi tiếp bước chứ không an nghỉ, bởi lòng nhiệt tâm lo cho Hội dòng của chị vẫn canh cánh, và sự tín nhiệm của chị em đối với chị vẫn cao độ. Chị tiếp bước trong khiêm tốn của chức vụ Phụ tá, để nâng đỡ người kế nhiệm, thật cảm phục và đáng quý thay!
Trong nhiệm kỳ mới này, Hội dòng tiếp tục đầu tư nâng cấp xây dựng các cơ sở:
• Tu xá Đa Minh và Trường Mẫu giáo Misa Phú Quốc: khánh thành ngày 17.12.2011.
• Nhà nguyện Tu xá K’Nai - Đức Trọng: khánh thành ngày 19.5.2012
• Nhà Sinh hoạt của Tu viện Đa Minh Lạng Sơn: khánh thành ngày 22.6.2013.
• Ngày 05.7.2012: chị em hiện diện phục vụ giáo xứ Thánh Mẫu, ấp Tam Bung, xã Phú Cường, Định Quán, Đồng Nai – thuộc Giáo phận Xuân Lộc. Tại đây, Hội dòng đã khởi công xây dựng mới trường Mẫu giáo Vàng Anh.
• Nhà Nội trú Tu xá Đa Minh Kênh Zêrô đã được xây dựng mới và hiện đang tiếp tục sửa chữa khu nhà cộng đoàn
2. Tại miền Bắc (1986 - 2013)
Sau 1975, thống nhất đất nước, những con đường bằng đất, bằng đá đã mở ra nối liền Bắc – Nam. Nhưng những con đường tinh thần, đường đem Tin Mừng hầu như khép kín!
Chị em Đa Minh Lạng Sơn nhớ lại cuộc ra đi để trung thành với con đường theo Chúa của mình vào thời điểm lịch sử năm 1954 là giả thiết có sự trở về! Biết rằng không có cuộc trở về nào là dễ dàng cả! nhất là sự trở về với căn tính của mình, với sứ mệnh của Đấng đã gọi và chọn mình. Nhưng với ơn Chúa chị em quyết tâm trở về, trở về với nguồn cội, trở về với cái nôi nơi mình được hình thành. Trên hết, trở về với tâm tình tri ân các bậc tiền bối và trách nhiệm với các thế hệ tiếp nối.
Thế là từ Tổng Hội II (1986-1992) một số chị em đã từng ở nhà Phước Thất Khê lên đường trở về trong quả cảm, dò dẫm… Chị em cứ kiên trì đi đi về về hoặc nấn ná tạm trú ngắn hạn với mục đích tìm kiếm ơn gọi địa phương mới, mong có kế hoạch lâu dài về nhân sự để phục vụ Giáo phận. Hội dòng cũng đã cắm người ở những nơi trước kia có Nhà Phước như Lộc Bình, Bản Lìm, Cửa Nam, Đồng Đăng, Thất Khê, Cao Bằng, nhưng thực khó khăn về tạm trú!
Thiên Chúa có đường lối của Ngài, ở những thời điểm mà Ngài muốn.
Năm 1988 Ngài đã cho đất mẹ nảy mầm với ba ơn gọi đầu tiên do Đức cha Vinh Sơn Phaolô Phạm Văn Dụ quan tâm hướng dẫn, là chị Maria Hứa Thanh Mai ở Đồng Đăng, chị Têrêsa Nguyễn Thị Hồng và chị Maria Phạm Thị Thu Hà ở Thất Khê. Các chị được đào tạo, huấn luyện trong Hội dòng tại miền Nam và ngày 09.8.1992 các chị đã tuyên khấn lần đầu. Vì nhu cầu công tác truyền giáo và phục vụ giáo phận, Đức cha đã xin cho chị Maria Hứa Thanh Mai được trở về giáo phận ngay, giúp ở Đồng Đăng.
Dần dần số ơn gọi ở giáo phận nhà cũng như một số giáo phận miền Bắc mỗi năm tăng thêm.
Dưới thời Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt coi sóc Giáo phận, Hội Dòng luôn ưu tiên gởi chị em về phục vụ Giáo phận và tiếp tục chuẩn bị nhân sự để có thể tái lập các cộng đoàn phục vụ giáo phận mẹ Lạng Sơn.
Đặc biệt từ khi Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân về coi sóc Giáo phận, Ngài đã khuyến khích Hội dòng gởi thêm nhân sự và tạo điều kiện để chị em phục vụ.
Hiện nay chị em đang phục vụ tại Tòa Giám Mục Lạng Sơn - Đồng Đăng - Thất Khê - Bó Tờ và Cao Bằng. Ngoài ra, chị em lưu động giúp một số Giáo xứ, Giáo họ khi có nhu cầu, cùng nhau thi hành sứ vụ truyền giáo và bác ái xã hội…
Các cơ sở tại miền Bắc cũng được Hội dòng đầu tư xây dựng:
• Ngày 31/01/2009: khánh thành Mái ấm Tình thương Vinh Sơn, Cộng đoàn Thất Khê, Huyện Tràng Định, Lạng Sơn; chăm sóc các cháu khuyết tật bại não.
• Ngày 31/5/2010: cơ sở Phụ xá Cao Bằng – Lạng Sơn.
• Ngày 18/7/2012: Tu xá Đồng Đăng - Lạng Sơn.
Sau bao nhiêu năm xa cách, bao mong mỏi đợi chờ! Đất mẹ đã dành cho những người con Đa Minh Lạng Sơn một lối về, dù chỉ là một lối về khiêm tốn nhất ! Lòng mẹ vẫn bao la, đất mẹ vẫn hiền hòa. Từ khe đá vẫn trổ hoa.
Ước gì chị em Đa Minh Lạng Sơn hôm nay, trong giới hạn của mình, biết gắn bó với nhau, làm cho cánh đồng Lạng Sơn đã thắm máu các vị thừa sai và cả máu chị em mình, trổ sinh nhiều hoa trái, những hoa trái tình thương nở rộ trên khắp giải đất quê hương yêu dấu.
Hội dòng Đa Minh Lạng Sơn (năm 2018) hiện có 21 cộng đoàn phục vụ trong 7 giáo phận:
• Giáo phận Lạng Sơn : 4 cộng đoàn
• Giáo phận TP. Hồ Chí Minh : 4 cộng đoàn
• Giáo phận Đà lạt : 2 cộng đoàn
• Giáo phận Xuân Lộc : 2 cộng đoàn
• Giáo phận Long Xuyên : 5 Cộng đoàn
• Giáo phận Phú Cường : 1 cộng đoàn
• Giáo phận Phan Thiết: 1 cộng đoàn
• Giáo phận Oaklahoma City – USA : 1 cộng đoàn
• Giáo phận Perth : 1 cộng đoàn
• Du học Roma : 2 chị
• Du học Mỹ : 3 chị
TỔNG SỐ CHỊ EM : 361
Số Nữ tu : 202 Khấn trọn; 98 Khấn Tạm.
Tập Sinh : 09; Tiền Tập sinh: 11; Thỉnh sinh: 41
(số liệu ngày 15/9/2017)
Nhìn lại qúa trình lịch sử, chị em Đa Minh Lạng Sơn ý thức rằng: Hội dòng sống còn và phát triển cho đến ngày hôm nay, là do công lao của quý Đức Cha, quý Cha Dòng Đa Minh Lyon – Pháp; quý Cha triều gốc Lạng Sơn và quý cha Đa Minh Việt Nam, đã dìu dắt, hướng dẫn chị em qua những biến cố thăng trầm của lịch sử. Bên cạnh các ngài là những chị em đi trước, đã có công gây dựng cho Hội dòng trong hy sinh gian khổ, để có một sự nghiệp vững bền tới ngày nay. Ngoài ra, chị em cũng không quên công ơn của quí Mẹ Bề trên và các chị thuộc Hội dòng Đa Minh Tam Hiệp, đã vì Chúa, vì Giáo hội, vì các linh hồn, tận tình hướng dẫn dìu dắt chị em trong những năm mới cải tổ.
Sống linh đạo Đa Minh:
NÓI VỚI CHÚA – NÓI VỀ CHÚA
Hoặc “CHIÊM NIỆM VÀ TRUYỀN THÔNG”,
Chia sẻ cho tha nhân những gì mình đã chiêm niệm
với sứ vụ đặc biệt của Hội dòng Đa Minh Lạng Sơn là
“LOAN BÁO TIN MỪNG CHO NGƯỜI NGHÈO KHÓ”
xuyên suốt giòng thời gian gần 100 năm, từ rừng Lạng Sơn miền Bắc đến miền đảo Phú Quốc trời Nam, những họat động của chị em đa số tập trung ở các xứ truyền giáo hoặc xứ đạo miền quê. Đơn sơ, giản dị, hội nhập vào cuộc sống người lao động địa phương để khai hóa dân trí, gieo rắc tình thương và giáo dục niềm tin. Cho đi cái mình có. Làm điều mình có thể với một con tim yêu mến và hiến dâng trọn vẹn. Thật bé nhỏ và khiêm tốn! Chị em Đa Minh Lạng Sơn trong hình thành và phát triển, đến hôm nay Dòng đã có một chỗ đứng trong lòng Giáo hội.
Hội dòng Đa Minh Lạng Sơn đang cùng nhịp bước với các hội dòng trong lòng Giáo hội Việt Nam và cùng với Giáo hội toàn cầu dấn thân “PHỤC VỤ ƠN CỨU ĐỘ”.
COMMENTS